Thứ Tư, 31 tháng 12, 2014

CHƯƠNG 2 - Tin Mừng theo Thánh Luca

 Ðức Giêsu ra đời.
Những người chăn chiên đến viếng thăm
(1) Thời ấy, hoàng đế Augúttô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. (2) Ðây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Quiriniô làm tổng trấn xứ Xyria. (3) Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. (4) Bởi thế, ông Giuse từ thành Nadarét, miền Galilê, lên thành Bêlem, miền Giuđê, là thành vua Ðavít, vì ông thuộc về nhà và gia tộc vua Ðavít. (5) Ông lên đó khai tên cùng với người đã đính hôn với ông là bà Maria, lúc ấy đang có thai. (6) Khi hai người đang ở đó, thì bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. (7) Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ.
(8) Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật. (9) Và kìa sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu toả chung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi hùng. (10) Nhưng sứ thần bảo họ: "Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: (11) Hôm nay, một Ðấng Cứu Ðộ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Ðavít, Người là Ðấng Kitô Ðức Chúa. (12) Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ". (13) Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng:
(14) Vinh danh Thiên Chúa trên trời.
bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.
(15) Khi các thiên sứ từ biệt mấy người chăn chiên để về trời, những người này bảo nhau: "Nào chúng ta sang Bêlem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết". (16) Họ liền hối hả ra đi. Ðến nơi, họ gặp bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. (17) Thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này. (18) Nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên. (19) Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng. (20) Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ.

Ðức Giêsu chịu phép cắt bì
(21) Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giêsu; đó là tên mà sứ thần đã đặt, trước khi Người được thụ thai trong lòng mẹ.
Tiến dâng Ðức Giêsu cho Thiên Chúa
(22) Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Môsê, bà Maria và ông Giuse đem con lên Giêrusalem, để tiến dâng cho Chúa, (23) như đã chép trong Luật Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa", (24) và cũng để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non. (25) Và này đây, tại Giêrusalem, có một người tên là Simêon. Ông là người công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của Ítraen, và Thánh Thần hằng ngự trên ông. (26) Ông đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Ðấng Kitô của Ðức Chúa. (27) Ðược Thần Khí dun dủi, ông lên Ðền Thờ. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giêsu đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền liên quan đến Người, (28) thì ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:
Bài ca "An Bình Ra Ði" (Nunc dimittis)
(29) Muôn lạy Chúa, giờ đây
theo lời Ngài đã hứa,
xin để tôi tớ này được an bình ra đi.
(30) Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ
(31) Chúa đã dành sẵn cho muôn dân:
(32) Ðó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại,
là vinh quang của Ítraen Dân Ngài.
Ông Si-mê-on nói tiên tri
(33) Cha mẹ Hài Nhi ngạc nhiên vì những lời ông Simêon vừa nói về Người. (34) Ông Simêon chúc phúc cho hai ông bà, và nói với bà Maria, mẹ của Hài Nhi: "Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ítraen phải vấp ngã hay được chỗi dậy. Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng (35) còn chính bà, thì một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà, ngõ hầu những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người phải lộ ra.
Bà Anna nói tiên tri
(36) Lại cũng có một nữ ngôn sứ tên là Anna, con ông Pơnuen, thuộc chi tộc Ase. Bà đã nhiều tuổi lắm. Từ khi xuất giá, bà đã sống với chồng được bảy năm, (37) rồi ở goá, đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời bỏ Ðền Thờ, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa. (38) Cũng vào lúc ấy, bà tiến lại gần bên, cảm tạ Thiên Chúa, và nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong chờ gặp ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giêrusalem.
Ðức Giêsu tiếp tục sống ẩn dật tại Na-da-rét
(39) Khi hai ông bà đã làm xong mọi việc như Luật Chúa truyền, thì trở về nơi cư ngụ là Nadarét, miền Galilê. (40) Còn Hài Nhi, ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa.
Ðức Giêsu ngồi giữa các bậc thầy DoThái
(41) Hằng năm, cha mẹ Ðức Giêsu trẩy hội đền Giêrusalem mừng lễ Vượt Qua. (42) Khi Người được mười hai tuổi, cả gia đình cùng lên đền, theo tập tục ngày lễ. (43) Xong kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn cậu bé Giêsu thì ở lại Giêrusalem, mà cha mẹ chẳng hay biết. (44) Ông bà cứ tưởng là cậu về chung với đoàn lữ hành, nên sau một ngày đường, mới đi tìm kiếm giữa đám bà con và người quen thuộc. (45) Không thấy con đâu, hai ông bà trở lại Giêrusalem mà tìm.
(46) Sau ba ngày, hai ông bà mới tìm thấy con trong Ðền Thờ, đang ngồi giữa các thầy dạy, vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi. (47) Ai nghe cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đáp của cậu. (48) Khi thấy con, hai ông bà sửng sốt, và mẹ Người nói với Người: "Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!" (49) Người đáp: "Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?" (50) Nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa nói.
Ðức Giêsu còn sống ẩn dật tại Nadarét
(51) Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nadarét và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. (52) Còn Ðức Giêsu, ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta.
CHIA SẺ


Bạn không thể trốn khỏi Đức Giêsu Kitô
Việc Ngài ra đời đã ảnh hưởng đến đời sống chính trị của vua Cê-sar (c. 1–3), sứ vụ của các thiên thần (c. 8–15), và những hoạt động của những người bình thường khác (c. 15–20). Vào ngày đó, các mục tử đã bị người đời nhìn một cách khinh dể; nhưng Thiên Chúa tách họ ra để trở thành những người sứ giả đầu tiên mang tin cuộc sinh hạ của Đấng Messia. Việc Ngài ngự đến đã đụng chạm đến những người đến Đền Thờ để thờ phượng (c. 21–38) và ngay cả những vị học giả (c. 39–52).
Các thiên thần ca ngợi Ngài, và Ngài là chủ đề hay nhất của âm nhạc. Luca đã viết về Ngài, và Ngài vẫn là chủ đề lớn nhất của văn học. Các mục tử đã vội vã đến bên Ngài, và Ngài vẫn là trung tâm lớn nhất của nghệ thuật. Các thầy dạy lắng nghe Ngài và ngưỡng mộ, và Ngài vẫn là trung tâm điểm của tất cả mọi chân lý và sự khôn ngoan.
Trong giai đoạn phát triển, Chúa Giêsu hoàn toàn quân bình: trí khôn (sự khôn ngoan), thể lý (vóc dáng), thiêng liêng (hướng về Thiên Chúa), và xã hội (hướng về con người); và Ngài vẫn là gương mẫu lớn lao nhất cho các thanh, thiếu niên. Hôm nay, ngày cuối cùng của năm 2014, cũng là lúc để bạn nhìn lại một năm qua bạn có được lớn lên chút nào trong tương quan với Chúa, và trong tương quan với những người thân cận của mình!
Chỉ mình Ngài đáng để chúng ta thờ lạy!
Nào, hãy đến! Chúng ta cùng bái thờ Ngài!
Bạn có thấy mình gặp khó khăn khi liên đới với những người giống như các mục đồng xưa? Bạn cảm thấy mình thuộc về tầng lớp của những người như các mục đồng hay tầng lớp trên? Bạn có nghĩ rằng dưới cái nhìn của Thiên Chúa mọi người đều bình đẳng, chẳng có phân biệt địa vị xã hội, nhưng Ngài cũng mời gọi chúng ta biết tôn kính những người trên, và tìm kiếm những người xã hội bỏ rơi?

Thứ Ba, 30 tháng 12, 2014

CHƯƠNG 1 - Tin Mừng theo Thánh Luca

Lời tựa
(1) Thưa ngài Thêôphilô đáng kính, có nhiều người đã ra công biên soạn bản tường thuật những điều đã được thực hiện giữa chúng ta. (2) Họ viết theo những điều mà các người đã được chứng kiến ngay từ đầu và đã phục vụ lời Chúa truyền lại cho chúng ta. (3) Tôi cũng vậy, sau khi đã cẩn thận tra cứu đầu đuôi mọi sự, thì thiết tưởng cũng nên tuần tự viết ra để kính tặng ngài, (4) mong ngài sẽ nhận thức được rằng giáo huấn ngài đã học hỏi thật là vững chắc. 
I. Thời Thơ Ấu: Ông Gioan Tẩy Giả
Và Ðức Giêsu Sinh Ra Và Sống Ẩn Dật 
Truyền tin cho ông Da-ca-ri-a
(5) Thời vua Hêrôđê cai trị miền Giuđê, có một vị tư tế thuộc nhóm Avia, tên là Dacaria; vợ ông là bà Elisabét cũng thuộc dòng tộc tư tế Aharon. (6) Cả hai ông bà đều là người công chính trước mặt Thiên Chúa, sống đúng theo mọi điều răn và mệnh lệnh của Chúa, không ai chê trách được điều gì. (7) Nhưng họ lại không có con, vì bà Elisabét là người hiếm hoi. Vả lại, cả hai đều đã cao niên.
(8) Sau đây là chuyện xảy ra trong lúc ông đang lo việc tế tự trước nhan Thiên Chúa theo phiên của nhóm ông. (9) Trong cuộc bắt thăm thường lệ của hàng tư tế, ông đã trúng thăm được vào dâng hương trong Ðền Thờ của Ðức Chúa, (10) còn toàn dân đông đảo thì cầu nguyện ở bên ngoài, trong giờ dâng hương.
(11) Bỗng một sứ thần của Chúa hiện ra với ông, đứng bên phải hương án. (12) Thấy vậy, ông Dacaria bối rối, và nỗi sợ hãi ập xuống trên ông. (13) Nhưng sứ thần bảo ông: "Này ông Dacaria, đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nhận lời ông cầu xin: bà Êlisabét vợ ông sẽ sinh cho ông một đứa con trai, và ông phải đặt tên cho con là Gioan. (14) Ông sẽ được vui mừng hớn hở, và nhiều người cũng được hỷ hoan ngày con trẻ chào đời. (15) Vì em bé sẽ nên cao cả trước mặt Chúa. Rượu lạt rượu nồng em sẽ đều không uống. Và ngay khi còn trong lòng mẹ, em đã đầy Thánh Thần. (16) Em sẽ đưa nhiều con cái Ítraen về với Ðức Chúa là Thiên Chúa của họ. (17) Ðược đầy thần khí và quyền năng của ngôn sứ Ê-li-a, em sẽ đi trước mặt Chúa, để làm cho lòng cha ông quay về với con cháu, để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo chính đường ngay, và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa". (18) Ông Dacaria thưa với sứ thần: "Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy? Vì tôi đã già, và nhà tôi cũng đã lớn tuổi". (19) Sứ thần đáp: "Tôi là Gáprien, hằng đứng chầu trước mặt Thiên Chúa, tôi được sai đến nói với ông và loan báo tin mừng ấy cho ông. (20) Và này đây, ông sẽ bị câm, không nói được, cho đến ngày các điều ấy xảy ra, bởi vì ông đã không tin lời tôi, là những lời sẽ được ứng nghiệm đúng thời đúng buổi". (21) Dân chúng đợi ông Dacaria, và lấy làm lạ sao ông ở lại trong cung thánh lâu như thế. (22) Lúc đi ra, ông không nói với họ được, và dân chúng biết là ông đã thấy một thị kiến trong cung thánh. Còn ông, ông chỉ làm hiệu cho họ và vẫn bị câm.
(23) Khi thời gian phục vụ ở Ðền Thờ đã mãn, ông trở về nhà. (24) Ít lâu sau, bà Elisabét vợ ông có thai, bà ẩn mình năm tháng. (25) Bà tự nhủ: "Chúa đã làm cho tôi như thế đó, khi Người thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu trước mặt người đời".
Truyền tin cho Ðức Ma-ri-a
(26) Bà Elisabét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáprien đến một thành miền Galilê, gọi là Nadarét, (27) gặp một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc nhà Ðavít. Trinh nữ ấy tên là Maria.
(28) Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: "Mừng vui lên, hỡi Ðấng đầy ân sủng, Ðức Chúa ở cùng bà. (29) Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì.
(30) Sứ thần liền nói: "Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. (31) Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. (32) Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Ðức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Ðavít, tổ tiên Người. (33) Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận."
(34) Bà Maria thưa với sứ thần: "Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!"
(35) Sứ thần đáp: "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Ðấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, người con sinh ra sẽ là thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa. (36) Kìa bà Êlisabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. (37) Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.
(38) Bấy giờ bà Maria nói: "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói". Rồi sứ thần từ biệt ra đi.

Ðức Ma-ri-a viếng thăm bà Ê-li-sa-bét
(39) Hồi ấy, bà Maria lên đường vội vã, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giuđa. (40) Bà vào nhà ông Dacaria và chào hỏi bà Êlisabét. (41) Bà Êlisabét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được trần đầy Thánh Thần, (42) liền kêu lớn tiếng và nói rằng: "Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. (43) Bởi đâu tôi được phúc này là Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi như vậy? (44) Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. (45) Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em."
Bài Ca "Ngợi Khen" (Magnificat)
(46) Bấy giờ bà Maria nói:
"Linh hồn tôi ngợi khen Ðức Chúa,
(47) thần trí tôi hớn hở vui mừng
vì Thiên Chúa, Ðấng cứu độ tôi.
(48) Phận nữ tỳ hèn mọn,
Người đoái thương nhìn tới;
từ nay, hết mọi đời
sẽ khen tôi diễm phúc.
(49) Ðấng Toàn Năng đã làm cho tôi
biết bao điều cao cả,
Danh Người thật chí thánh chí tôn !
(50) Ðời nọ tới đời kia,
Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
(51) Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,
dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
(52) Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
(53) Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư,
người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
(54) Chúa độ trì Ítraen, tôi tớ của Người,
(55) như đã hứa cùng cha ông chúng ta,
vì Người nhớ lại lòng thương xót
dành cho tổ phụ Ápraham
và cho con cháu đến muôn đời.
(56) Bà Maria ở lại với bà Êlisabét độ ba tháng, rồi trở về nhà.
Ông Gio-an Tẩy Giả ra đời, láng giềng chia vui
(57) Tới ngày mãn nguyệt khai hoa, bà Êlisabét sinh hạ một con trai. (58) Nghe biết Chúa đã quá thương bà như vậy, láng giềng và thân thích đều chia vui với bà.
Ông Gio-an Tẩy Giả chịu phép cắt bì
(59) Khi con trẻ được tám ngày, họ đến làm phép cắt bì, và tính lấy tên cha là Dacaria mà đặt cho em. (60) Nhưng bà mẹ lên tiếng nói: "Không, phải đặt tên cháu là Gioan". (61) Họ bảo bà: "Trong họ hàng của bà, chẳng ai có tên như vậy cả". (62) Rồi họ làm hiệu hỏi người cha, xem ông muốn đặt tên cho em bé là gì. (63) Ông xin một tấm bảng nhỏ và viết: "Tên cháu là Gioan". Ai nấy đều bỡ ngỡ. (64) Ngay lúc ấy, miệng lưỡi ông lại mở ra, ông nói được, và chúc tụng Thiên Chúa. (65) Láng giềng ai nấy đều kinh sợ. Và các sự việc ấy được đồn ra khắp miền núi Giuđê. (66) Ai nghe cũng để tâm suy nghĩ và tự hỏi: "Ðứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây?" Và quả thật có bàn tay Chúa phù hộ em.
Bài ca "Chúc Tụng" (Benedictus)
(67) Bấy giờ, người cha của em, tức là ông Dacaria, được đầy Thánh Thần, liền nói tiên tri rằng:
(68) "Chúc túng Ðức Chúa là Thiên Chúa Ítraen
đã viếng thăm cứu chuộc dân Người.
(69) Từ dòng dõi trung thần Ðavít,
Người đã cho xuất hiện
Vị Cứu Tinh quyền thế để giúp ta,
(70) như Người đã dùng miệng các vị thánh ngôn sứ
mà phán hứa tự ngàn xưa:
(71) sẽ cứu ta thoát khỏi địch thù,
thoát tay mọi kẻ hằng ghen ghét;
(72) sẽ trọn bề nhân nghĩa với tổ tiên
và nhớ lại lời xưa giao ước;
(73) Chúa đã thề với tổ phụ Ápraham
rằng sẽ giải phóng ta khỏi tay địch thù,
(74) và cho ta chẳng còn sợ hãi,
(75) để ta sống thánh thiện công chính trước nhan Người,
mà phụng thờ Người suốt cả đời ta.
(76) Hài Nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu
là ngôn sứ của Ðấng Tối Cao:
con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người,
(77) bảo cho dân Chúa biết: Người sẽ cứu độ
là tha cho họ hết mọi tội khiên.
(78) Thiên Chúa ta đầy lòng trắn ẩn,
cho Vầng Ðông tự chốn cao vời viếng thăm ta.
(79) Soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối
và trong bóng tối tử thần,
dẫn ta bước vào đường nẻo bình an".
Ông Gio-an Tẩy Giả sống ẩn dật
(80) Cậu bé càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh. Cậu sống trong hoang địa cho đến ngày ra mắt dân Ítraen. 

DẪN NHẬP
Luca là một y sĩ, có thể là người Hy lạp (Cl 4:10–11, 14), là bạn đồng hành cùng với Phaolô trong một số cuộc hành trình. (lưu ý đến một số đại từ “chúng tôi” trong sách Tông Đồ Công Vụ 6:10; 20:5; 21:1; 27:1.) Ngài đã viết sách Tin Mừng theo thánh Luca và sách Tông Đồ Công Vụ (Lc 1:1–4; Cv 1:1–3), cả hai cuốn sách đều ghi lại những hành trình: hành trình của Đức Giêsu lên Giêrusalem (Luca 9:51)và của Phaolô về Rôma.
Bác sĩ Luca đã viết theo lối nghcủa ngôn ngữ Hylạp và trình bày về Đức Giêsu Kitô như là Con Người hoàn hảo, Đấng Cứu Độ đầy lòng trắc ẩn (Lc 19:10).  Ngài đề cập đến phụ nữ, trẻ em và người nghèo rất thường xuyên trong Tin Mừng của ngài; và niềm vui, và hãy vui lên được lập lại nhiều lần. Trong Tin Mừng cũng nhấn mạnh về cầu nguyện và tình yêu của Thiên Chúa dành cho toàn thể thế giới. Luca đã nói với Theophilus (“người yêu mến Thiên Chúa”) trong cả hai cuốn sách, một người tín hữu, công dân Rôma, có thể là một quan chức, là người đang cần bén rễ trong đức tin.
Cách tiếp cận của Luca rất đơn giản. Ngài ghi lại trình thuật về việc Chúa sinh ra và giai đoạn đầu đời (chương. 1–2); Chúa chịu phép rửa và bị cám dỗ (3:1–4:13);  sứ mạng ở Galilê (4:14–9:17); sứ mạng và hành trình lên Giêrusalem (9:18–19:27); và tuần hoạt động cuối cùng ở Giêrusalem (19:28–24:53)..
Khi bạn đọc Tin Mừng Luca, bạn sẽ cảm thấy yêu Con Người đầy lòng trắc ẩn, Đấng chăm sóc cho những ai thiếu thốn và muốn sứ điệp cứu độ được mang đến cho toàn thế giới.
 

CHIA SẺ
Phục vụ (c.1–25). Sự thất vọng vì không có con trai đã không ngăn cản Dacaria phục vụ Chúa. Hãy trung thành; bạn chẳng bao giờ biết được khi nào thiên thần của Chúa hiện đến. Dacaria giữ niềm tin khi tiếp tục cầu nguyện; nhưng khi lời cầu nguyện được ứng nghiệm, ông đã không tin để đón nhận điều đó. Ông nhìn đến những giới hạn của mình hơn là quyền năng vĩ đại của Thiên Chúa. Cứng tin đã gây nên sự câm lặng; đức tin mở miệng bạn để ca ngợi Thiên Chúa (Tv 116:10; 2Cr 4:13). Thiên Chúa có kế họach và thời gian của Ngài. Chúng ta chỉ hiểu được phần nào Kế Họach của Thiên Chúa qua sự mặc khải của Đức Kitô và các sứ giả của Ngài. Chính việc trung thành trong sứ vụ được giao cũng là nơi bạn gặp được mặc khải của Thiên Chúa. Bạn đang thực thi sứ vụ của mình bằng thói quen hay bằng thái độ vững tin, để nhờ đó bạn luôn biết ca ngợi Thiên Chúa?
Tuân phục (c.26–38). Thật là hãnh diện khi được chọn làm mẹ của Đấng Mê-si-a! Đức Maria đã khiêm tốn vâng theo Chúa vì Mẹ đã có niềm tin rằng Ngài sẽ giữ lời hứa của Ngài. Quyết định của Mẹ sẽ mang đến nhiều ưu sầu và đau khổ, nhưng Mẹ sẵn sàng đón nhận. Mẹ trở thành “được chúc phúc giữa các người phụ nữ” bởi vì ân sủng của Thiên Chúa được trao cho Mẹ (c. 28, 30). Tất cả những ai tin vào Đức Kitô là Đấng cứu độ của họ cũng được nhận ân sủng bởi Chúa (Ep 1:6). Mẹ đã đáp lại Lời Thiên Chúa khi nghe sứ thần truyền tin như thế nào? Và đâu là cách thức bạn lắng nghe và đáp lại Lời mời gọi của Thiên Chúa trong cuộc sống của bạn?
Hát ca (c.39–80). Một cô gái Do thái đang mang thai từ Nazaret, đã đính hôn với một chàng thợ mộc nghèo tên là Giuse, vậy Đức Maria đã ca hát về điều gì? Mẹ đã hát về Chúa, những điều mà Ngài đã làm cho Mẹ (c. 46–49), cho tất cả những ai kính sợ Ngài (c. 50–53), và cho dân tộc Israel (c. 54–55). Thiên Chúa đã ban sức mạnh cho người yếu, vương niệm cho người thấp bé, và thực phẩm cho người đói; còn người mạnh, người giàu, và quyền lưc trở về tay không.
Dacaria đã ca ngợi Thiên Chúa vì những gì Thiên Chúa đã làm cho Dân Ngài, Israel. Đó là bình minh của một ngày mới (c. 78–79) bởi vì Đấng Messia đã sắp được sinh ra. Thiên Chúa giữ lời hứa và trung thành với giao ước của Ngài. Sau khi nghe những bài ca này bạn có thấy mình có tâm tình gì để cùng cất lời ca ngợi Thiên Chúa về những gì Ngài đã làm trong cuộc đời của bạn?

Thứ Hai, 29 tháng 12, 2014

CHƯƠNG 16 - Tin Mừng theo Thánh Máccô

 Ngôi mộ trống. Thiên thần báo tin
(1) Vừa hết ngày sabát, bà Maria Mácđala với bà Maria mẹ ông Giacôbê, và bà Salômê, mua dầu thơm để đi ướp xác Ðức Giêsu. (2) Sáng tinh sương ngày thứ nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc, các bà ra mộ.
(3) Các bà bảo nhau: "Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ giùm ta đây?" (4) Nhưng vừa ngước mắt lên, các bà đã thấy tảng đá lăn ra một bên rồi, mà tảng đá ấy lớn lắm. (5) Vào trong mộ, các bà thấy một người thanh niên ngồi bên phải, mặc áo trắng; các bà hoảng sợ. (6) Nhưng người thanh niên liền nói: "Ðừng hoảng sợ! Các bà tìm Ðức Giêsu Nadarét, Ðấng bị đóng đinh chứ gì! Người đã chỗi dậy rồi, không còn đây nữa. Chỗ đã đặt Người đây này!(7) Xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phêrô rằng Người sẽ đến Galilê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người như Người đã nói với các ông". (8) Vừa ra khỏi mộ, các bà liền chạy trốn, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía. Các bà chẳng nói gì với ai, vì sợ hãi.
Ðức Giêsu phục sinh hiện ra
(9) Sau khi sống lại vào lúc tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần, Ðức Giêsu hiện ra trước tiên với bà Maria Mácđala, là kẻ đã được Người trừ cho khỏi bảy quỷ. (10) Bà đi báo tin cho những kẻ đã từng sống với Người mà nay đang buồn bã khóc lóc. (11) Nghe bà nói Người đang sống và bà đã thấy Người, các ông vẫn không tin.
(12) Sau đó, Người tỏ mình ra dưới một hình dạng khác cho hai người trong nhóm các ông, khi họ đang trên đường đi về quê. (13) Họ trở về báo tin cho các ông khác, nhưng các ông ấy cũng không tin hai người này.
(14) Sau cùng, Người tỏ mình ra cho chính Nhóm Mười Một đang khi các ông dùng bữa. Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người sống lại.(15) Người nói với các ông: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. (16)Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án. (17) Ðây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. (18) Họ sẽ cầm được rắn, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao. Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được mạnh khoẻ".

(19) Nói xong, Chúa Giêsu được rước lên trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. (20) Còn các Tông Ðồ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng.
CHIA SẺ


Ngài đã chỗi dậy (c.1–8). Bởi vì họ đã quên lời hứa phục sinh của Ngài, những người phụ nữ đã u sầu và lo lắng về tương lai: “Ai sẽ lăn hoàn đá ra khỏi mồ?” Khi họ đã biết rằng Đức Giêsu đã sống lại, phản ứng đầu tiên của họ là sợ hãi và không tin; nhưng rồi họ đã trở thành những người đưa tin của Đấng Phục sinh. Thiên thần đã có lời đặc biệt với Phêrô (c.7) ông chắc chắn vẫn còn đang đau buồn vì tội của mình. Đấng Kitô hằng sống trao cho anh điều gì đó để mừng vui, điều gì đó để nói với nhau, và điều gì đó để hướng về phía trước. Ngài đi trước các anh! Đức tin được giữ gìn và chuyển trao từ thời Giáo Hội Sơ Khai, qua hằng ngàn năm đến với tới ngày hôm nay. Bản thân tôi, tôi làm gì để giữ gìn và trao lại cho thế hệ mai sau?
Ngài đã hiện ra (c.9–18). Phần này tóm kết lại những lần Chúa Phục sinh hiện ra. Tất cả với những ai Ngài đã hiện ra họ trở thành chứng nhân của sự phục sinh của Ngài. (Cv 1:22), hôm nay chúng ta cũng phải làm giống như vậy (Rm 6:4; Pl 3:10). Tuy nhiên, cũng cần chất vấn chính mình: tại sao tôi không tin khi mà biết bao con người đã thấy và đổ máu ra để làm chứng cho điều ấy?
Ngài đã về trời (c.19–20). Người Tôi Tớ đã ngự bên hữu của Cha! Ngài đã khiêm hạ chính Mình trong vâng phục, và Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài trong vinh quang (Pl 2:5–11). Nhưng Ngài không nghỉ ngơi, vì Ngài đang làm việc với dân của Ngài khi họ mang tin mừng đi khắp các quốc gia. Thật là can đảm để trở thành chứng nhân cho Chúa của bạn! Ngày hôm nay, bạn có thể chọn giữa sống và chết. Bạn có thể chọn giữa tin vào Đức Giê-su Phục sinh và vì vậy tin vào Đức Giê-su Ki-tô. Bạn có thể chọn giữa sự chết và thất vọng, hay tình yêu và sự sống vĩnh hằng. Đức Giê-su đã đến để đem cho chúng ta sự sống, chứ không phải chết, vì thế, đâu là chọn lựa của bạn?

Chủ Nhật, 28 tháng 12, 2014

CHƯƠNG 15 - Tin Mừng theo Thánh Máccô

 Ðức Giêsu ra trước tổng trấn Phi-la-tô
(1) Vừa tảng sáng, các thượng tế đã họp bàn với các kỳ mục và kinh sư, tức là toàn thể Thượng Hội Ðồng. Sau đó, họ trói Ðức Giêsu lại và giải đi nộp cho ông Philatô.
(2) Ông Philatô hỏi Người: "Ông là vua dân Dothái sao?" Người trả lời: "Chính ngài nói đó". (3) Các thượng tế tố cáo Người nhiều tội, (4) nên ông Philatô lại hỏi Người: "Ông không trả lời gì sao? Nghe kìa, họ tố cáo ông biết bao nhiêu tội!" (5) Nhưng Ðức Giêsu không trả lời gì nữa, khiến ông Philatô phải ngạc nhiên.
(6) Vào mỗi dịp lễ lớn, ông thường phóng thích cho họ một người tù, tuỳ ý họ xin. (7) Khi ấy có một người tên là Baraba, đang bị giam với những tên phiến loạn đã giết người trong một vụ nổi dậy. (8) Ðám đông kéo nhau lên yêu cầu tổng trấn ban ân xá như thường lệ. (9) Ðáp lời họ yêu cầu, ông Philatô hỏi: "Các ông có muốn ta phóng thích cho các ông vua dân Dothái không?" (10) Bởi ông thừa biết chỉ vì ghen tỵ mà các thượng tế nộp Người. (11)Nhưng các thượng tế sách động đám đông đòi ônbg Philatô phóng thích tên Baraba thì hơn. (12) Ông Philatô lại hỏi: "Vậy ta phải xử thế nào với người mà các ông gọi là vua dân Dothái?" (13) Họ la lên: "Ðóng đinh nó vào thập giá!" (14) Ông Philatô lại hỏi: "Nhưng ông ấy đã làm điều gì gian ác?" Họ càng la to: "Ðóng đinh nó vào thập giá!"(15) Vì muốn chiều lòng đám đông, ông Philatô phóng thích tên Baraba, truyền đánh đòn Ðức Giêsu, rồi trao Người cho họ đóng đinh vào thập giá.
Ðức Giêsu đội vòng gai
(16) Lính điệu Ðức Giêsu vào bên trong dinh, tức là dinh tổng trấn và tập trung cả cơ đội lại. (17) Chúng khoác cho Người một tấm áo điều, và kết một vòng gai làm vương miện đặt lên đầu Người. (18) Rồi chúng chào bái Người: "Vạn tuế đức vua dân Dothái!" (19) Chúng dùng cây sậy đập đầu Người, khạc nhổ vào Người, và quỳ gối bái lạy. (20) Chế giễu chán, chúng lột áo điều Người ra để đóng đinh vào thập giá.
Ðường lên Gôn-gô-tha
(21) Lúc ấy, có một người từ miền quê lên, đi ngang qua đó, tên là Simon, gốc Kyrênê. Ông là thân phụ hai ông Alêxanđê và Ruphô. Chúng bắt ông vác thập giá đỡ Ðức Giêsu. (22) Chúng đưa Người lên một nơi gọi là Gôngôtha, nghĩa là Ðồi Sọ.
(23) Chúng trao rượu pha mộc dược cho Người, nhưng Người không uống. (24) Chúng đóng đinh Người vào thập giá, rồi đem áo Người ra bắt thăm mà chia nhau, xem ai được cái gì. (25) Lúc chúng đóng đinh Người là giờ thứ ba. (26) Bản án xử tội Người viết rằng: "Vua người Dothái". (27) Bên cạnh Người, chúng còn đóng đinh hai tên cướp, một đứa bên phải, một đứa bên trái. [(28) Thế là ứng nghiệm lời Kinh Thánh: Người bị liệt vào hạng những tên phạm pháp.]
Ðức Giêsu ở trên thập giá bị sỉ vả nhạo cười
(29) Kẻ qua người lại đều nhục mạ Người, vừa lắc đầu vừa nói: "Ê, mi là kẻ phá Ðền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, (30) có giỏi thì xuống khỏi thập giá mà cứu mình đi!" (31) Các thượng tế và kinh sư cũng chế giễu Người như vậy, họ nói với nhau: "Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. (32) Ông Kitô vua Ítraen ấy, cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi, để chúng ta thấy và tin". Cả những tên cùng chịu đóng đinh với Người cũng nhục mạ Người.

Ðức Giêsu chết trên thập giá
(33) Vào giờ thứ sáu, bóng tối bao phủ khắp mặt đất mãi đến giờ thứ chín. (34) Vào giờ thứ chín, Ðức Giêsu kêu lớn tiếng: "Êlôi, Êlôi, lama sabácthani!" Nghĩa là: "Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?"(35) Nghe vậy, một vài người đứng đó liền nói: "Kìa hắn kêu cứu ông Êlia". (36) Rồi có kẻ chạy đi lấy một miếng bọt biển, thấm đầy giấm, cắm vào một cây sậy, đưa lên cho Người uống mà nói: "Ðể xem ông Êlia có đến đem hắn xuống không. (37) Ðức Giêsu lại kêu lên một tiếng lớn, rồi tắt thở. (38) Bức màn trướng trong Ðền Thờ bỗng xé ra làm hai từ trên xuống dưới. (39) Viên đại đội trưởng đứng đối diện với Ðức Giêsu, thấy Người tắt thở như vậy liền nói: "Quả thật, người này là Con Thiên Chúa".
Các phụ nữ đạo đức trên Gôn-gô-tha
(40) Nhưng cũng có mấy phụ nữ đứng xa xa mà nhìn, trong đó có bà Maria Mácđala, bà Maria mẹ các ông Giacôbê thứ và Gioxê, cùng bà Salômê. (41) Các bà này đã đi theo và giúp đỡ Ðức Giêsu khi Người còn ở Galilê. Lại có nhiều bà khác đã cùng với Người lên Giêrusalem, cũng có mặt tại đó.
Ðức Giêsu được mai táng
(42) Chiều đã đến, mà vì hôm ấy lại là ngày sửa soạn, tức là áp ngày sabát, (43) nên ông Giôxép tới. Ông là người thành Arimathê, thành viên có thế giá của hội đồng, và cũng là người vẫn mong đợi Triều Ðại của Thiên Chúa. Ông đã mạnh dạn đến gặp tổng trấn Philatô để xin thi hài Ðức Giêsu. (44) Nghe nói Người đã chết, ông Philatô lấy làm ngạc nhiên, và cho đòi viên đại đội trưởng đến, hỏi xem Người đã chết lâu chưa. (45) Sau khi nghe viên sĩ quan cho biết sự việc, tổng trấn đã cho ông Giôxép lãnh lấy thi hài. (46) Ông này mua một tấm vải gai, hạ xác Ðức Giêsu xuống, lấy tấm vải ấy liệm Người lại, đem đặt vào ngôi mộ đã đục sẵn trong núi đá, rồi lăn tảng đá lấp cửa mộ. (47) Còn bà Maia Mácđala và bà Maria mẹ ông Gioxê, thì để ý nhìn xem chỗ họ mai táng Người.
CHIA SẺ


Khi bạn đối diện với sự công kích bất công của thế giới sự dữ, hãy nhớ đến Đức Giêsu. Thế gian nói, “bảo vệ lấy chính bạn!” nhưng Đức Giêsu đã thinh lặng (c.1-5). Thế gian nói, “hãy nuông chiều bản thân mình!” nhưng Đức Giêsu từ chối chất giảm đau (c.23). Thế gian nói, “Cứu lấy chính mình!” nhưng Đức Giêsu vẫn ở lại trên thập giá và đã hoàn tất công việc mà Cha trao cho Ngài thực hiện (c.30). Sự dữ đã nói với Đức Giêsu, “Hãy tự phục vụ mình!” (Mt 4:3–4). Phêrô đã nói, “Hãy thương chính mình!” (Mt 16:21–23). Những người bà con chưa được cứu của Ngài đã nói, “Hãy tỏ mình ra!” (Ga 7:4). Đám đông trên đồi Calvê đã nói, “Hãy cứu chính mình!” Nhưng Đức Giêsu đã điếc với tất cả những đề nghị này và đã trao ban Chính Ngài. Đâu là những đề nghị mà thế gian đang bày ra cho bạn và đâu là đề nghi mà Đức Giê-su mời gọi bạn?
Các thượng tế đã phạm tội ganh tỵ (c.10), và Philatô đã phạm tội đồng lõa (c.15). Tội của họ dẫn tới giải phóng một con người tội lỗi (c.15), sự lúng túng của một người vô tội (c.21), và cái chết của một người tốt (c.25); tuy nhiên, ngày hôm nay, ghen tỵ và đồng lõa đã không được xem như những tội kinh khủng. Liệu chúng có nên được xem như vậy chăng?
Con người đang làm những điều xấu xa nhất, nhưng Thiên Chúa đang làm điều tốt nhất của Ngài và hoàn tất Lời Ngài (c.28, 34): “nhưng ở đâu tội lỗi lan tràn, ở đó ân sủng còn chứa chan hơn nữa” (Rm 5:20). Và Ngài đã làm điều đó cho bạn và cho tôi! Simêon thành Cyrênê có thể đã đến Giêrusalem để cử hành lễ Vượt Qua (Cv 2:10),và ông đã gặp Chiên Thiên Chúa! Có vẻ như ông đã hoán cải và trở về nhà và hướng dẫn hai người con trai của ông tin vào Đức Kitô. Những người đàn ông này được biết đến đối với đọc giả Rôma của Maccô, vì thế họ mới trở thành những lãnh đạo trong giáo hội (Rm 16:13). Giả như những kế hoạch của bạn bị hoãn lại và bạn phải mang lấy một thập giá khác, liệu bạn có nhớ đến điều Simêon đã làm cho Đức Giêsu- và điều Đức Giêsu đã làm cho Simêon, khi đó bạn sẽ cảm nhận điều gì?