Thứ Hai, 11 tháng 2, 2013

CHƯƠNG 01 - TÔ-BI-A

 1 Ðây là sách truyện ông Tô-bít, con ông Tô-bi-ên, cháu ông Kha-nan-ên, chắt ông A-đu-ên, cháu ba đời ông Ga-ba-ên, cháu bốn đời ông Ra-pha-en, cháu năm đời ông Ra-gu-ên.
Ông thuộc dòng dõi ông A-xi-ên, chi tộc Náp-ta-li. 2 Vào thời San-ma-ne-xe làm vua Át-sua, ông bị đày khỏi Tít-be, một thành ở miền nam Ky-đi-ô, thuộc Náp-ta-li, trên miền Ga-li-lê Thượng, bên trên Khát-xo nằm lui vào bên trong, hướng mặt trời lặn, ở phía bắc Phô-go.
 Ông Tô-bít bị lưu đày
3 Tôi là Tô-bít, tôi đã từng ăn ở theo sự thật và lẽ ngay suốt mọi ngày đời tôi. Tôi cũng đã từng rộng tay bố thí cho anh em và đồng bào tôi, những người cùng đi đày với tôi qua Ni-ni-vê, ở xứ Át-sua. 4 Khi tôi còn ở trong xứ tôi là đất Ít-ra-en, và khi tôi còn trẻ, toàn bộ chi tộc của cha tôi là Náp-ta-li đã ly khai với nhà Ða-vít, tổ tiên tôi, và thành đô Giê-ru-sa-lem. Trong tất cả các chi tộc Ít-ra-en, thành này đã được chọn làm nơi cho mọi chi tộc Ít-ra-en đến tế lễ; và tại đây, Ðền Thờ Thiên Chúa ngự đã được thánh hiến và xây cất cho mọi thế hệ mai sau. 5 Còn tất cả anh em tôi, cũng như nhà Náp-ta-li cha tôi, thì trên mọi núi đồi miền Ga-li-lê, lại cúng tế con bê mà Gia-róp-am, vua Ít-ra-en, đã làm ra tại Ðan.
6 Chỉ có mình tôi đã nhiều lần trẩy lên Giê-ru-sa-lem vào các dịp lễ, theo những điều đã chép trong chiếu chỉ ngàn đời được ban truyền trong toàn cõi Ít-ra-en. Các hoa quả đầu mùa và những con vật đầu lòng, cũng như một phần mười đàn vật và lông những con cừu được xén lần đầu tiên, tôi đều mau mắn đưa tới Giê-ru-sa-lem. 7 Tôi dâng các thứ đó cho các thầy tư tế, con cái ông A-ha-ron, để lo việc tế lễ; còn một phần mười lúa miến, rượu nho, ô-liu, thạch lựu, vả cùng những trái cây còn lại, thì dâng cho con cái ông Lê-vi đang phục vụ tại Giê-ru-sa-lem. Phần mười thứ hai, tôi nộp bằng tiền mặt trong sáu năm liền để làm tiền tiêu dùng hằng năm tại Giê-ru-sa-lem. 8 Tiền đó, tôi tặng cô nhi, quả phụ và những người ngoại kiều sống giữa con cái Ít-ra-en; ba năm một lần, tôi đem đến tặng họ. Chúng tôi dùng số tiền đó mà ăn tiêu theo chiếu chỉ được ban truyền trong luật Mô-sê liên quan đến những việc ấy, và theo các huấn lệnh của bà Ðơ-vô-ra, thân mẫu cha ông chúng tôi là Kha-nan-ên, vì cha tôi chết để lại tôi mồ côi. 9 Ðến tuổi thành nhân, tôi lấy một người thuộc dòng dõi cha ông chúng tôi làm vợ; nhờ nàng, tôi được một đứa con trai và đặt tên cho nó là Tô-bi-a.
10 Thời lưu đày qua Át-sua, tôi cũng bị đi đày và đã tới Ni-ni-vê. Mọi anh em và những người cùng một dòng máu với tôi đều đã dùng thức ăn của dân ngoại. 11 Còn tôi, tôi vẫn kiêng không dùng thức ăn của dân ngoại. 12 Và bởi vì tôi hết lòng tưởng nhớ Thiên Chúa tôi, 13 nên Người là Ðấng Tối Cao đã làm cho tôi được vừa lòng đẹp mắt vua San-ma-ne-xe. Tôi đã trở thành người mua sắm cho vua tất cả những gì vua cần dùng. 14 Vì vậy, tôi thường hay qua xứ Mê-đi mua sắm cho vua, cho đến ngày vua băng hà; và tôi đã gởi ông Ga-ba-ên, là anh em ông Gáp-ri, tại xứ Mê-đi, những túi bạc tính tất cả là ba trăm ký.
15 Khi vua San-ma-ne-xe băng hà, thái tử Xan-khê-ríp lên ngôi kế vị, thì các đường Mê-đi bị cắt đứt, và tôi không thể qua Mê-đi được nữa. 16 Dưới thời vua San-ma-ne-se, tôi đã rộng tay bố thí cho các anh em cùng một dòng máu với tôi. 17 Cơm bánh của tôi, tôi cho người đói khát; quần áo của tôi, tôi cho kẻ trần truồng; nếu thấy ai trong số đồng bào tôi chết và bị quăng thây ra phía sau tường thành Ni-ni-vê, thì tôi chôn cất người đó. 18 Nếu có ai bị vua Xan-khê-ríp giết chết trên đường vua trốn khỏi Giu-đê trở về, trong những ngày Vua Trời trừng phạt vua về những lời phạm thượng đã thốt ra, thì tôi cũng chôn cất. Quả vậy, trong cơn phẫn nộ, vua đã giết chết nhiều người trong số con cái Ít-ra-en, còn tôi cứ đi lấy trộm xác họ mà chôn cất. Vua Xan-khê-ríp đi tìm những xác đó mà không thấy. 19 Một người dân thành Ni-ni-vê tố giác với vua rằng chính tôi là người chôn cất họ, nên tôi lẩn tránh. Khi được biết là vua đã rõ chuyện tôi và đang cho người lùng bắt để giết tôi, tôi sợ hãi và trốn thoát. 20 Thế là bao nhiêu của cải tôi có đều bị tịch thu, không còn lại một chút gì mà không bị sung vào kho vua, trừ An-na vợ tôi và Tô-bi-a con trai tôi.

Tô-bít chôn cất người chết và bị quăng thây ra phía sau tường thành Ni-ni-vê
21 Không đầy bốn mươi ngày sau, hai người con trai của vua giết chết vua, rồi bỏ trốn lên núi A-ra-rát. Hoàng tử Ê-xa-khát-đôn lên ngôi kế vị vua cha, và đặt A-khi-ca, con trai của A-na-ên, người anh em tôi, lên trông coi việc tài chính cả nước cùng nắm quyền điều khiển toàn bộ công việc quản trị. 22 Bấy giờ, A-khi-ca bênh vực tôi và tôi đã trở xuống Ni-ni-vê. Quả vậy, dưới triều Xan-khê-ríp, vua Át-sua, A-khi-ca đã từng làm quan đại chước tửu, chưởng ấn, người trông coi việc quản trị và tài chính. Vua Ê-xa-khát-đôn lại đặt A-khi-ca giữ các chức vụ một lần nữa: A-khi-ca là cháu trai và cùng một dòng họ với tôi.
CHIA SẺ
        Tô-bít được mô tả trong chương này là một người đạo đức thánh thiện. Ông là một người hay chia sẻ, ông đã cho người đói ăn và áo mặc cho người trần truồng. Ông là người trung thành với gia đình, được triển khai trong phần sau cuốn sách, qua việc ông làm theo chỉ dẫn của bà ngoại (1: 8), kết hôn với Hannah, người đến từ bộ lạc của ông (1: 9), và chia sẻ cho những người họ hàng của mình (1: 16-17 ). Việc chôn cất người chết của Tô-bít có liên quan cụ thể đến bối cảnh lưu đày của ông. Vào lúc bấy giờ xác chết của những người Do Thái bị sát hại bị bỏ ngoài đường và không được chôn cất (1: 17-19). Do đó, vì chôn cất người chết, Tô-bít bị bách hại và mất đi tài sản của mình.
       Tô-bít là người công chính và phải chịu đau khổ. Qua những trải nghiệm của Tô-bít đã cho thấy cuốn sách bắt đầu giúp đọc giả khám phá vấn đề đau khổ và lòng đạo đức một cách sâu sắc hơn. Vì thế trong quy điển Thánh Kinh Công Giáo, cuốn sách này được xếp vào thể loại các Sách Sử, vì đề cập đến nhiều yếu tố mang tính niên đại, và địa dư trải dài nhưng nội dung của sách cũng phản ánh nhiều điểm tương đồng với dòng Văn Chương Khôn Ngoan.

       Tô-bít là một điển hình về một người Do thái đạo đức trong thời gian lưu đày. Những minh chứng về lòng đạo đức của Tô-bít mà câu chuyện mô tả được coi là rất mẫu mực về nhân cách của một người thánh thiện trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Có bao giờ vì giúp đỡ một ai mà bạn bị lãnh hậu quả nào đó? Có bao giờ vì ngại khó, và sợ hãi bạn đã bỏ qua những việc mà đáng lý ra mình phải thực hiện vì mình là một Kitô hữu?

1 nhận xét:

  1. " Cơm bánh của tôi, tôi cho người đói khát; quần áo của tôi, tôi cho kẻ trần truồng; nếu thấy ai trong số đồng bào tôi chết và bị quăng thây ra phía sau thành Ni ni ve, thì tôi chôn cất người đó"

    Tự thời đó, thời mà con nghĩ chắc con người chưa được học hành nhiều như bây giờ Chúa nhỉ! Mà có người đã sống yêu thương quên cả thân mình. Phục ông này quá!

    Ngày nay, biết bao người còn cứ phải hơn thua, ăn miếng trả miếng, hòn đá ném qua hòn chì ném lại. Nhiều lúc bị oan sai mà con cảm thấy buồn cười, chi mà cứ phải ồn ào win win mí chịu.

    Ba hôm nay liên tục, con đi lễ là gặp lễ ang táng, ( người có phục vụ thì lễ trịnh trọng hơn, lễ người già thì đơn sơ hơn, lễ người ko phục vụ thì khác tí).

    Con chợt nghĩ, sống như nào chứ còn khi con nằm xuống, Chúa muốn sao muốn. Con cũng ko mong một thánh lễ ang tang quy mô long trọng, con muốn một sự ra đi lặng lẽ, dịu êm. Vì quan sát con ko thích sự đối xử khác biệt cho đến phút ra đi như thế Chúa ạ. Dĩ nhiên, con tôn trọng điều Chúa muốn, tôn trọng kinh nghiệm của các đấng tiền bối. Có điều con phải nói với Chúa là con phải nói cùng Chúa vậy. Con chạnh lòng thôi à.

    Nhiều người cũng tức giùm cho con, khi họ cho rằng tại sao con dại dột...

    Vì khi đi nhiều đám tang và nghe các bài hát về sự ra đi ấy, làm cho con có suy nghĩ dị biệt. Con nghĩ rằng: Nếu làm để ăn và cung phụng thân xác, thì con ko cần phải làm. Con sẽ về quê làm 1 mảnh lúa để lấy gạo dùng nấu cơm khi cảm thấy cơ thể có nhu cầu, khi cảm thấy đói thì con hái các loại rau có sẵn trong thiên nhiên để luộc ăn, xong. Vì con có khả năng biết các loại cỏ ăn được mà ko phải ai cũng biết, hì.

    Nhưng con nhận thấy cuộc sống chỉ có ăn và làm rồi chết thì nhạt nhẻo lắm. Con nghĩ, Chúa cho con người quá cảnh nơi trần gian là để rèn luyện nhân đức, để sống yêu thương nâng đỡ, để ăn năn sám hối, để Chúa lọc.

    Con lại nghĩ: vì sao con người ko bao giờ thấy đủ, có lẽ vì đích đến của con người là ở đời sau chứ ko phải đời này, giống hạnh phúc của con mèo nó ở cái đuôi, cứ làm cứ sống rồi hạnh phúc nó theo sau, hạnh phúc ko thể cầm nắm được, đúng ko Chúa?

    Con vẫn cảm thấy sợ người chết lắm, con ko như Ông này, con khen Ông này ở chổ ổng còn chôn cả người chết.
    Có lẽ con ko làm được đâu Chúa. Xin Chúa gìn giữ, chữa lành bệnh nơi Thân Hữu con, con thấy Người Ấy còn làm được cánh tay nối dài của Chúa trong nhiều thứ lắm. Xin Chúa thương vì còn tiếp tục trọng dụng mà chữa lành, lấy đi những đớn đau nơi Người ấy. Xin Chúa nhận nơi con một niềm ao ước, một lời khẩn cầu nài vang Chúa. Amen.

    Trả lờiXóa

Kính mời quý ACE chia sẻ cảm nhận hoặc nêu thắc mắc ở đây. Xin cám ơn.
HHTLC