Thứ Bảy, 31 tháng 1, 2015

CHƯƠNG 9 - Tin Mừng theo Thánh Gioan

 Ðức Giêsu chữa một người mù từ thuở mới sinh
(1) Ði ngang qua, Ðức Giêsu nhìn thấy một người mù từ thuở mới sinh. (2) Các môn đệ hỏi Người: "Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?" (3) Ðức Giêsu trả lời: "Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng chuyện đó xảy ra là để các việc của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh.
(4) Chúng ta phải làm
những việc của Ðấng đã sai Thầy,
khi trời còn sáng;
đêm đến, không ai có thể làm việc được.
(5) Bao lâu Thầy còn ở thế gian,
Thầy là ánh sáng thế gian".
(6) Nói xong, Ðức Giêsu nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù, (7) rồi bảo anh ta: "Anh hãy đến hồ Silôác mà rửa (Silôác có nghĩa là: người được sai phái). Vậy anh ta đến rửa ở hồ, và khi về thì nhìn thấy được.

(8) Các người láng giềng và những kẻ trước kia thường thấy anh ta ăn xin mới nói: "Hắn không phải là người vẫn ngồi ăn xin đó sao?" (9) Có người nói: "Chính hắn đó!" Kẻ khác lại nói rằng: "Không phải đâu! Nhưng là một đứa nào giống hắn đó thôi!" Còn anh ta thì quả quyết: "Chính tôi đây!" (10) Người ta liền hỏi anh: "Vậy, làm sao mắt anh lại mở ra được như thế?" (11) Anh ta trả lời: "Người tên là Giêsu đã trộn một chút bùn, xức vào mắt tôi, rồi bảo: 'Anh hãy đến hồ Silôác mà rửa'. Tôi đã đi, và sau khi rửa tôi nhìn thấy được". (12) Họ lại hỏi anh: "Ông ấy đâu?" Anh ta đáp: "Tôi không biết".
(13) Họ dẫn kẻ trước đây bị mù đến với những người Pharisêu. (14) Nhưng ngày Ðức Giêsu trộn chút bùn và làm mắt anh mở ra lại là ngày sabát. (15) Vậy, các người Pharisêu hỏi thêm một lần nữa làm sao anh nhìn thấy được. Anh trả lời: "Ông ấy lấy bùn thoa vào mắt tôi, tôi rửa và tôi nhìn thấy". (16) Trong nhóm Pharisêu, người thì nói: "Ông ta không thể là người của Thiên Chúa được, vì không giữ ngày sabát"; kẻ thì bảo: "Một người tội lỗi sao có thể làm được những dấu lạ như vậy?" Thế là họ đâm ra chia rẽ. (17) Họ lại hỏi người mù: "Còn anh, anh nghĩ gì về người đã mở mắt cho anh?" Anh đáp: "Người là một vị ngôn sứ!"
(18) Người Dothái không tin là trước đây anh bị mù mà nay nhìn thấy được, nên đã gọi cha mẹ anh ta đến. (19) Họ hỏi: "Anh này có phải là con ông bà không? Ông bà nói là anh bị mù từ khi mới sinh, vậy sao bây giờ anh lại nhìn thấy được?" (20) Cha mẹ anh đáp: "Chúng tôi biết nó là con chúng tôi, nó bị mù từ khi mới sinh. (21) Còn bây giờ làm sao nó thấy được, chúng tôi không biết, hoặc có ai đã mở mắt cho nó, chúng tôi cũng chẳng hay. Xin các ông cứ hỏi nó; nó đã lớn khôn rồi, tự nó nói về mình được." (22) Cha mẹ anh nói thế vì sợ người Dothái. Thật vậy, người Dothái đã đồng lòng trục xuất khỏi hội đường kẻ nào dám tuyên xưng Ðức Giêsu là Ðấng Kitô. (23) Vì thế, cha mẹ anh mới nói: "Nó đã khôn lớn rồi, xin các ông cứ hỏi nó".
(24) Một lần nữa, họ gọi người trước đây bị mù đến và bảo: "Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa. Chúng ta đây, chúng ta biết ông ấy là người tội lỗi". (25) Anh ta đáp: "Ông ấy có phải là người tội lỗi hay không, tôi không biết. Tôi chỉ biết một điều: Trước đây tôi bị mù mà nay tôi nhìn thấy được!" (26) Họ mới nói với anh: "Ông ấy đã làm gì cho anh? Ông ấy đã mở mắt cho anh thế nào?" (27) Anh trả lời: "Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông vẫn không chịu nghe. Tại sao các ông còn muốn nghe lại chuyện đó nữa? Hay các ông cũng muốn làm môn đệ ông ấy chăng?" (28) Họ liền mắng nhiếc anh: "Có mày mới là môn đệ của ông ấy; còn chúng ta, chúng ta là môn đệ của ông Môsê. (29) Chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã nói với ông Môsê; nhưng chúng ta không biết ông ấy ở đâu mà đến". (30) Anh đáp: "Kể cũng lạ thật! Các ông không biết ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã mở mắt cho tôi! (31) Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. (32) Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. (33) Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì". (34) Họ đối lại: "Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư?" Rồi họ trục xuất anh.
(35) Ðức Giêsu nghe nói họ đã trục xuất anh, và khi gặp lại anh, Người hỏi: "Anh có tin vào Con Người không?" (36) Anh đáp: "Thưa Ngài, Ðấng ấy là ai để tôi tin?" (37) Ðức Giêsu trả lời: "Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây". (38) Anh nói: "Thưa Ngài, tôi tin". Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người.
(39) Ðức Giêsu nói:
"Tôi đến thế gian này
chính là để xét xử:
cho người không xem thấy được thấy,
và kẻ xem thấy lại nên đui mù!"
(40) Những người Pharisêu đang đứng ở đó với Ðức Giêsu nghe vậy, liền lên tiếng: "Thế ra cả chúng tôi cũng đui mù hay sao?" (41) Ðức Giêsu bảo họ:
"Nếu các ông đui mù,
thì các ông đã chẳng có tội.
Nhưng giờ đây các ông nói rằng: 'Chúng tôi thấy',
nên tội các ông vẫn còn!"
CHIA SẺ
 Sự bực bội (c.1–12). Qua việc đặt đất sét vào mắt người mù, Đức Giêsu khích lệ anh ta vâng lời và và rửa vào ngày sabat. Thỉnh thoảng Chúa làm cho chúng ta bực bội trước khi Người làm cho chúng ta được sáng mắt. Quyền năng của Ngài lớn lao đến nỗi Ngài có thể sử dụng những điều thường như bụi đất và nước để thực hiện phép lạ. Người này có thể nghe, nhưng không nhìn thấy, và Lời đã làm sinh ra đức tin. Bạn có để cho những gì mình thấy trong hiện tại làm cho chính bạn chìm sâu trong đau khổ và thất vọng?
Sự chất vấn (c.13–34). Anh ta bị những người hàng xóm (c.10) và cả người Pharisêu (c. 15, 19, 26) đặt vấn đề. Thay vì tìm kiếm sự thật, và sự tự do mà nó đem lại (8:32), những người Pharisêu từ chối sự thật và kết quả là sự trói buộc tệ hơn trước. Nếu chúng ta chân thành đặt câu hỏi, với một thái độ sẵn sàng để vâng phục, Chúa sẽ dẫn chúng ta đến sự thật (7:17). Nếu bạn không thành thật với Thiên Chúa, liệu Ngài sẽ cho bạn thấy anh sáng của Ngài?
Căn tính (c.35–41). Những người Pharisêu là những mục tử giả vì họ xua đuổi người đã được chữa sáng mắt, nhưng Đức Giêsu là Mục Tử Nhân Lành đã đưa con người vào! Anh ta đã biết rằng Ngài là “một Người được gọi là Giêsu” (c.11), “một ngôn sứ” (c.17), và “một Người của Thiên Chúa” (c. 33); nhưng anh ta cần để biết rằng Ngài là “Con Thiên Chúa” (c.35). Anh ta đã tin và đã được cứu. Hãy tỉnh táo vì những kinh nghiệm thiêng liêng mang đến ơn độ đích thực một cách nhanh chóng. Trong kinh nghiệm của bạn có về Thiên Chúa, Ngài là ai trong tương quan và trong kinh nghiệm của bạn với Ngài?

Thứ Sáu, 30 tháng 1, 2015

CHƯƠNG 8 - Tin Mừng theo Thánh Gioan

 Người phụ nữ ngoại tình
(1) Còn Ðức Giêsu thì đến núi Ôliu.
(2) Vừa tảng sáng, Người trở lại Ðền Thờ. Toàn dân đến với Người. Người ngồi xuống giảng dạy họ. (3) Lúc đó, các kinh sư và người Pharisêu dẫn đến trước mặt Ðức Giêsu một phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình. Họ để chị ta đứng ở giữa, (4) rồi nói với Người: "Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. (5) Trong sách Luật, ông Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?" (6) Họ nói thế nhằm thử Người, để có bằng cớ tố cáo Người. Nhưng Ðức Giêsu cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất. (7) Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người ngẩng lên và bảo họ: "Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi". (8) Rồi Người lại cúi xuống viết trên đất. (9) Nghe vậy, họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi. Chỉ còn lại một mình Ðức Giêsu, và người phụ nữ thì đứng ở giữa. (10) Người ngẩng lên và nói: "Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?" (11) Người đàn bà đáp: "Thưa ông, không có ai cả". Ðức Giêsu nói: "Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!"

Ðức Giêsu, ánh sáng cho trần gian
(12) Ðức Giêsu lại nói với người Dothái:
"Tôi là ánh sáng thế gian.
Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối,
nhưng sẽ nhận được
ánh sáng đem lại sự sống".
Tranh luận về lời chứng của Ðức Giêsu
liên quan đến bản thân Người
(13) Người Pharisêu nói với Ðức Giêsu: "Ông làm chứng cho chính mình; lời chứng của ông không thật!" (14) Người trả lời:
"Tôi có làm chứng cho chính mình đi nữa,
thì lời chứng của tôi vẫn là chứng thật,
bởi vì tôi biết tôi từ đâu tới và đi đâu.
Còn các ông, các ông không biết
tôi từ đâu tới và đi đâu.
(15) Các ông xét đoán theo kiểu người phàm;
phần tôi, tôi không xét đoán ai cả.
(16) Mà nếu tôi có xét đoán,
thì sự xét đoán của tôi
vẫn đúng sự thật,
vì không phải chỉ có mình tôi,
nhưng có tôi và Ðấng đã sai tôi.
(17) Trong Lề Luật của các ông, có chép rằng
lời chứng của hai người là chứng thật.
(18) Tôi làm chứng cho chính mình,
và Chúa Cha là Ðấng đã sai tôi
cũng làm chứng cho tôi".
(19) Họ liền hỏi người: "Cha ông ở đâu?" Ðức Giêsu đáp:
"Các ông không biết tôi,
cũng chẳng biết Cha tôi.
Nếu các ông biết tôi,
thì hẳn cũng biết Cha tôi".
(20) Người đã nói những lời ấy, khi giảng dạy trong Ðền Thờ, tại nơi đặt thùng tiền dâng cúng. Không có ai bắt Người, vì giờ của Người chưa đến.
(21) Ðức Giêsu lại nói với họ:
"Tôi ra đi, các ông sẽ tìm tôi,
và các ông sẽ mang tội mình mà chết.
Nơi tôi đi, các ông không thể đến được".
(22) Người Dothái mới nói: "Ông ấy sẽ tự tử hay sao mà lại nói" 'Nơi tôi đi, các ông không thể đến được'?" (23) Người bảo họ:
"Các ông bởi hạ giới;
còn tôi, tôi bởi thượng giới.
Các ông thuộc về thế gian này;
còn tôi, tôi không thuộc về thế gian này.
(24) Tôi đã nói với các ông là
các ông sẽ mang tội lỗi mình mà chết.
Thật vậy, nếu các ông không tin là Tôi Hằng Hữu,
các ông sẽ mang tội lỗi minh mà chết".
(25) Họ liền hỏi Người: "Ông là ai?" Ðức Giêsu đáp:
"Hoàn toàn đúng như tôi vừa nói với các ông đó.
(26) Tôi còn có nhiều điều phải nói
và xét đoán về các ông.
Nhưng Ðấng đã sai tôi là Ðấng chân thật;
còn tôi, tôi nói lại cho thế gian
những điều tôi đã nghe Người nói".
(27) Họ không hiểu là Ðức Giêsu nói với họ về Chúa Cha. (28) Người bảo họ:
"Khi các ông giương cao Con Người lên,
bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu,
và biết tôi không tự mình làm bất cứ điều gì,
nhưng Chúa Cha đã dạy tôi thế nào,
thì tôi nói như vậy.
(29) Ðấng đã sai tôi vẫn ở với tôi;
Người không để tôi cô độc,
vì tôi hằng làm những điều đẹp ý Người".
(30) Khi Ðức Giêsu nói thế, thì có nhiều kẻ tin vào Người.
Ðức Giêsu và ông Áp-ra-ham
(31) Vậy, Ðức Giêsu nói với
những người Dothái đã tin Người:
"Nếu các ông ở lại trong lời của tôi,
thì các ông thật là môn đệ tôi;
(32) các ông sẽ biết sự thật,
và sự thật sẽ giải phóng các ông".
(33) Họ đáp: "Chúng tôi là dòng dõi ông Ápraham. Chúng tôi không hề làm nô lệ cho ai bao giờ. Làm sao ông lại nói: các ông sẽ được tự do?" (34) Ðức Giêsu trả lời:
"Thật, tôi bảo thật các ông:
hễ ai phạm tội thì làm nô lệ cho tội.
(35) Vậy, nếu người Con có giải phóng các ông,
thì các ông mới thực sự là những người tự do.
(37) Tôi biết các ông là dòng dõi ông Ápraham,
nhưng các ông tìm cách giết tôi,
vì lời tôi không thấm vào lòng các ông.
(38) Phần tôi, tôi nói những điều đã thấy nơi Cha tôi;
còn các ông, các ông làm
những gì đã nghe cha các ông nói".
(39) Họ đáp: "Cha chúng tôi là ông Ápraham". Ðức Giêsu nói:
"Giả như các ông là con cái ông Ápraham,
hẳn các ông phải làm
những việc ông Ápraham đã làm.
(40) Thế mà bây giờ các ông lại tìm giết tôi,
là người đã nói cho các ông
sự thật mà tôi đã nghe biết từ Thiên Chúa.
Ðiều đó, ông Ápraham đã không làm.
(41) Còn các ông, các ông làm
những việc cha các ông làm".
Họ mới nói: "Chúng tôi đâu phải là con hoang. chúng tôi chỉ có một Cha: đó là Thiên Chúa!" (42) Ðức Giêsu bảo họ:
"Giả như Thiên Chúa là Cha các ông,
hẳn các ông phải yêu mến tôi,
vì tôi phát xuất từ Thiên Chúa
và bởi Thiên Chúa mà đến.
Thật thế, tôi không tự mình mà đến,
nhưng chính Người đã sai tôi.
(43) Tại sao các ông không hiểu lối nói của tôi?
Là vì các ông không thể nghe lời tôi nói.
(44) Cha các ông là ma quỷ,
và các ông muốn làm những gì cha các ông ham thích.
Ngay từ đầu, nó đã không đứng về phía sự thật,
vì sự thật không ở trong nó.
Khi nó nói dối là nó theo bản tính của nó,
bởi vì nó là kẻ nói dối
và là cha sự gian dối.
(45) Còn tôi, chính vì tôi nói sự thật,
nên các ông không tin tôi.
(46) Ai trong các ông chứng minh được
là tôi có tội?
Nếu tôi nói sự thật,
sao các ông lại không tin tôi?
(47) Ai thuộc về Thiên Chúa,
thì nghe lời Thiên Chúa nói;
còn các ông, các ông không chịu nghe,
vì các ông không thuộc về Thiên Chúa".
(48) Người Dothái đáp: "Chúng tôi bảo ông là người Samari và người bị quỷ ám thì chẳng đúng lắm sao? (49) Ðức Giêsu trả lời:
"Tôi không bị quỷ ám.
Nhưng tôi tôn kính Cha tôi;
còn các ông, các ông lại làm nhục tôi.
(50) Phần tôi, tôi không tìm vinh quang cho mình.
Có Ðấng tìm cho tôi và xét xử cho tôi.
(51) Thật, tôi bảo thật các ông:
ai tuân giữ lời tôi,
thì sẽ không bao giờ phải chết".
(52) Người Dothái liền nói: "Bây giờ, chúng tôi biết chắc là ông bị quỷ ám. Ông Ápraham đã chết, các ngôn sứ cũng vậy; thế mà ông lại nói:
"Ai tuân giữ lời tôi,
thì sẽ không bao giờ phải chết".
(53) Chẳng lẽ ông lại cao trọng hơn cha chúng tôi là ông Ápraham sao? Người đã chết, các ngôn sứ cũng đã chết. Ông tự coi mình là ai?" (54) Ðức Giêsu đáp:
"Nếu tôi tôn vinh chính mình,
vinh quang của tôi chẳng là gì cả.
Ðấng tôn vinh tôi chính là Cha tôi,
Ðấng mà các ông gọi là Thiên Chúa của các ông.
(55) Các ông không biết Người;
còn tôi, tôi biết Người.
Nếu tôi nói là tôi không biết Người,
thì tôi cũng là kẻ nói dối như các ông.
Nhưng tôi biết Người và giữ lời Người.
(56) Ông Ápraham là cha các ông
đã hớn hở vui mừng
vì hy vọng được thấy ngày của tôi.
Ông đã thấy và đã mừng rỡ".
(57) Người Dothái nói: "Ông chưa được năm mươi tuổi mà đã thấy ông Ápraham!" (58) Ðức Giêsu đáp:
"Thật, tôi bảo thật các ông:
trước khi có ông Ápraham,
thì tôi, Tôi Hằng Hữu!"
(59) Họ liền lượm đá để ném Người. Nhưng Ðức Giêsu lánh đi và ra khỏi Ðền Thờ.
CHIA SẺ


Kết án (c.1–11). Người phụ nữ đã phạm tội, nhưng còn người đàn ông đâu? Cả hai đều đáng tội chết (Lv. 20:10). Đó là một cái bẫy và Đức Giêsu đã biết điều đó, nhưng Ngài đã kết thúc chiếc bẫy và những người giăng bẫy. Phải chăng Ngài đã viết trên đất để nhắc họ rằng chính Ngài đã viết (Xh 31:18) hay ám chỉ tới Giêrêmia 17:13 (x. Lc 10:20)? Đây là một sự chắc chắn tuyệt vời của chúng ta: “Vậy giờ đây, những ai ở trong Đức Kitô Giêsu thì không còn bị lên án nữa” (Rm 8:1). Khung cảnh ở đây gồm có một người phụ nữ ngoại tình, một đám đông tự cho mình là những người công chính hóa, và một Đấng Cứu Độ, bạn thấy mình thuộc về nhóm nào? Có điều gì mà bạn thấy mình cần được tha thứ? Có điều gì bạn thấy mình cần bỏ lại đằng sau?

Minh chứng (c.12–29). Những người lãnh đạo tôn giáo đã không biết nơi họ đang tới hay nơi Đức Giêsu đang tới, bởi vì họ trong tình trạng tăm tối về đàng thiêng liêng. Họ có ánh sáng của Luật (c. 5; Cn 6:23) và lương tâm (c.9), nhưng họ đã không có ánh sáng của sự sống. Hệ quả, họ không biết về Cha hay hiểu điều Đức Giêsu đã dạy họ. Làm thế nào chúng ta có thể tỏa sáng trong thế gian này? Bạn có thể làm gì để cho thế giới này thành một nơi đáng sống hơn?

Giải phóng (c.30–59). Con người bị trói buộc đối với người Rôma và Luật của Môsê, tuy nhiên họ nói rằng họ tự do! Trong câu 35, Đức Giêsu có lẽ đã ám chỉ đến Issaac và Ismael (Stk 21:8–21), bởi vì người Do thái đề cập đến Abraham (c.33). Người Con đem đến cho các ngươi tự do (c. 36), vì thế tin tưởng vào Ngài và bước theo Ngài. Chân lý của Ngài làm cho bạn tự do (c. 32), vì thế hãy học hỏi chân lý ấy, và tuân giữ. Satan bắt con người làm nô lệ, nhưng làm như thể họ được tự do (2Pr 2:19); Đức Giêsu trao cho các bạn một cái ách nhưng lại đem bạn đến sự tự do (Mt 11:28–30). Bạn có bị gánh nặng của tội đè nặng lên cuộc sống mình?Bạn có từng hụt bước bởi ảnh hưởng của tội và những cám dỗ? Bạn có muốn được tự do theo như cách mà Thiên Chúa muốn nơi con người của bạn?

Thứ Năm, 29 tháng 1, 2015

CHƯƠNG 7 - Tin Mừng theo Thánh Gioan

 4. Lễ Lều 
Ðức Giêsu lên Giê-ru-sa-lem dự lễ và giảng dạy
(1) Sau đó, Ðức Giêsu thường đi lại trong miền Galilê; thật vậy, Người không muốn đi lại trong miền Giuđê, vì người Dothái tìm giết Người.
(2) Lễ Lều của người Dothái gần tới, (3) anh em Ðức Giêsu nói với Người: "Ông bỏ đây mà sang miền Giuđê đi, để cả môn đệ của ông cũng được nhìn thấy những việc ông làm, (4) vì không ai muốn được người ta biết đến mà lại hoạt động âm thầm. Nếu ông làm những việc ấy, thì hãy tỏ mình ra cho thiên hạ biết". (5) Thật thế, anh em Người không tin vào Người. (6) Ðức Giêsu nói với họ: "Thời của tôi chưa đến, nhưng thời của các anh lúc nào cũng thuận tiện. (7) Thế gian không thể ghét các anh, nhưng tôi thì nó ghét, vì tôi làm chứng rằng các việc nó làm thì xấu xa. (8) Các anh cứ lên dự lễ đi; còn tôi, tôi không lên dự lễ này, vì thời của tôi chưa chín muồi". (9) Nói thế rồi, Người ở lại Galilê. (10) Tuy nhiên, khi anh em Người đã lên dự lễ, thì chính Người cũng lên, nhưng không công khai và hầu như bí mật. (11) Người Dothái tìm kiếm Người trong dịp lễ và nói: "Ông ấy đâu rồi?" (12) Dân chúng bàn tán nhiều về Người. Kẻ thì bảo: "Ðó là một người tốt". Kẻ thì nói: "Không, ông ta mê hoặc dân chúng". (13) Nhưng không ai dám công khai nói về Người, vì sợ người Dothái.
(14) Vào giữa kỳ lễ, Ðức Giêsu lên Ðền Thờ và giảng dạy. (15) Người Dothái lấy làm ngạc nhiên. Họ nói: "Ông này không học hành gì, mà sao lại thông thạo chữ nghĩa thế!" (16) Ðức Giêsu trả lời:
"Ðạo lý tôi dạy không phải là của tôi,
nhưng là của Ðấng đã sai tôi.
(17) Ai muốn làm theo ý của Người,
thì sẽ biết rằng
đạo lý ấy là bởi Thiên Chúa
hay do tôi tự mình giảng dạy.
(18) Ai tự mình giảng dạy,
thì tìm vinh quang cho Ðấng đã sai mình,
thì là người chân thật,
và nơi người ấy không có gì là bất chính.
(19) Ông Môsê đã chẳng ban Lề Luật
cho các ông sao?
Thế mà không một ai trong các ông
tuân giữ Lề Luật!
Sao các ông lại tìm cách giết tôi?" (20) Dân chúng đáp: "Ông bị quỷ ám rồi! Có ai tìm giết ông đâu?" (21) Ðức Giêsu trả lời: "Tôi chỉ làm có một việc, mà tất cả các ông đều ngạc nhiên. (22) Ông Môsê đã truyền cho các ông làm phép cắt bì (thực ra, phép ấy đã có từ thời các tổ phụ, chứ không phải từ thời ông Môsê), và các ông làm phép cắt bì cả trong ngày sabát. (23) Vậy, nếu có người có chịu phép cắt bì trong ngày sabát để khỏi lỗi luật Môsê, thì sao các ông lại nổi giận với tôi, vì tôi đã chữa lành toàn thân một người trong ngày sabát? (24) Các ông đừng xét đoán theo bề ngoài nữa, nhưng hãy xét đoán cho công minh".

http://www.storiesnow.com/53j
Dân chúng tranh luận về nguồn gốc của Ðấng Kitô
(25) Bấy giờ có những người ở Giêrusalem nói: "Ông này không phải là người họ đang tìm giết đó sao? (26) Kìa, ông ta ăn nói công khai mà họ chẳng bảo gì cả. Phải chăng các nhà hữu trách đã thực sự nhìn nhận ông là Ðấng Kitô? (27) Ông ấy, chúng ta biết ông xuất thân từ đâu rồi; còn Ðấng Kitô, khi Người đến thì chẳng ai biết Người xuất thân từ đâu cả". (28) Lúc giảng dạy trong Ðền Thờ, Ðức Giêsu nói lớn tiếng rằng:
"Các ông biết tôi ư?
Các ông biết tôi xuất thân từ đâu ư?
Tôi đâu có tự mình mà đến.
Ðấng đã sai tôi là Ðấng chân thật.
Các ông, các ông không biết Người.
(29) Phần tôi, tôi biết Người,
bởi vì tôi từ nơi Người mà đến
và chính Người đã sai tôi".
(30) Bấy giờ họ tìm cách bắt Người, nhưng chẳng có ai tra tay bắt, vì giờ của Người chưa đến.
Ðức Giêsu loan báo Người sắp ra đi
(31) Trong dân chúng, có nhiều kẻ đã tin vào Người, họ nói: "Khi Ðấng Kitô đến, liệu Người có làm nhiều dấu lạ hơn ông này chăng?" (32) Người Pharisêu nghe dân chúng bàn tán với nhau về Người như thế, nên họ và các thượng tế sai vệ binh đi bắt Người. (33) Vậy, Ðức Giêsu bảo họ:
"Tôi còn ở với các ông ít lâu nữa thôi,
rồi tôi đi đến cùng Ðấng đã sai tôi.
(34) Các ông sẽ tìm tôi mà không gặp,
và nơi tôi ở, các ông không thể đến được".
(35) Người Dothái liền nói với nhau: "Ông ấy sắp đi đâu mà chúng ta không gặp được? Phải chăng ông sắp đi gặp kiều bào sống giữa người Hy Lạp, để giảng dạy cho người Hy Lạp? (36) Ông ấy muốn nói gì khi bảo:
'Các ông sẽ tìm tôi mà không gặp,
và nơi tôi ở, các ông không thể đến được'?"
Lời hứa ban nước hằng sống
(37-38) Hôm ấy là ngày bế mạc tuần lễ Lều, và là ngày long trọng nhất. Ðức Giêsu đứng trong Ðền Thờ và lớn tiếng nói rằng:
"Ai khát, hãy đến với tôi,
ai tin vào tôi, hãy đến mà uống!"
Như Kinh Thánh đã nói:
Từ lòng Người, sẽ tuôn chảy
những dòng nước hằng sống.
(39) Ðức Giêsu muốn nói về Thần Khí mà những kẻ tin vào Người sẽ lãnh nhận. Thật thế, bấy giờ họ chưa nhận được Thần Khí, vì Ðức Giêsu chưa được tôn vinh.
Dân chúng lại tranh luận về nguồn gốc của Ðấng Kitô
(40) Trong dân chúng, có những người nghe các lời ấy thì nói: "Ông này thật là vị ngôn sứ". (41) Kẻ khác rằng: "Ông này là Ðấng Kitô". Nhưng có kẻ lại nói: "Ðấng Kitô mà lại xuất thân từ Galilê sao? (42) Nào Kinh Thánh đã chẳng nói: Ðấng Kitô xuất thân từ dòng dõi vua Ðavít và từ Bêlem, làng của vua Ðavít sao?" (43) Vậy, vì Người mà dân chúng đâm ra chia rẽ. (44) Một số trong bọn họ muốn bắt Người, nhưng chẳng có ai tra tay bắt.
(45) Các vệ binh, trở về với các thượng tế và người Pharisêu. Họ liền hỏi chúng: "Tại sao các anh không điệu ông ấy về đây?" (46) Các vệ binh trả lời: "Xưa nay chưa hề đã có ai nói năng như người ấy!" (47) Người Pharisêu liền nói với chúng: "Cả các anh nữa, các anh cũng bị mê hoặc rồi sao? (48) trong hàng thủ lãnh hay trong giới Pharisêu, đã có mặt ai tin vào tên ấy đâu? (49) Còn bọn dân đen này, thứ người không biết Lề Luật, đúng là quân bị nguyền rủa!" (50) Trong nhóm Pharisêu, có một người tên là Nicôđêmô, trước đây đã đến gặp Ðức Giêsu; ông nói với họ: (51) "Lề Luật của chúng ta có cho phép kết án ai, trước khi nghe người ấy và biết người ấy làm gì không?" (52) Họ đáp: "Cả ông nữa, ông cũng là người Galilê sao? Ông cứ nghiên cứu, rồi sẽ thấy: không một ngôn sứ nào xuất thân từ Galilê cả".
(53) Sau đó, ai nấy trở về nhà mình.
CHIA SẺ
 Thế gian nghĩ như thế nào (c.1–9). Vì Ngài đang thực hiện ý Cha, Đức Giêsu đã sống theo một theo một thời khóa biểu thánh (c. 30; 2:4; 8:20; 13:1), và chúng ta cũng nên như vậy (Tv 31:14–15). Thế gian không hiểu điều này và sẽ cho bạn lời khuyên ngược với ý Thiên Chúa. Bạn có nghĩ rằng sống theo chương trình của Thiên Chúa và bạn sẽ luôn luôn nhận được sự trợ giúp từ Ngài?
Thế gian làm quyết định như thế nào (c.10–36). Cuộc thảo luận này cho thấy sự bối rối và không tin của dân chúng. Một số người theo Ngài bởi vì những phép lạ Ngài thực hiện, trong khi số khác thì chống đối Ngài, vì Ngài phá vỡ luật Sabat. Một số khác chờ đợi để xem những người lãnh đạo của họ làm gì (c. 26), và những người lãnh đạo của họ muốn giết Ngài. Họ đã phán xét dựa vào bề ngoài (c.24) và đã lạc hướng. Bạn thực hiện những quyết định dựa trên những tiêu chuẩn nào?
Thế gian cần gì (c.37–53). Một nghi thức trong dịp Lễ Lều là đổ nước trong đền thờ. Điều đó nhắc nhở rằng Thiên Chúa đã ban cho Israel nước trong sa mạc. Nước uống phác họa về Chúa Thánh Thần, Đấng được ban cho những ai tin vào Đức Kitô. Thế gian vẫn đang khát và có thể tìm thấy phương thế để có thể thỏa mãn cơn khát của mình chỉ nhờ việc họ đến với Đức Kitô. Đâu là những cơn khát trong hiện tại của bạn, và bạn nghĩ đến phương thế nào để thỏa mãn cho những cơn khát ấy?

Thứ Tư, 28 tháng 1, 2015

CHƯƠNG 6 - Tin Mừng theo Thánh Gioan

3. Lễ Vượt Qua
Diễn Từ Về Bánh Trường Sinh 
Ðức Giêsu hóa bánh ra nhiều
(1) Sau đó, Ðức Giêsu sang bên kia Biển Hồ Galilê, cũng gọi là Biển Hồ Tibêria. (2) Có đông đảo dân chúng đi theo Người, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Người làm cho những kẻ đau ốm. (3) Ðức Giêsu lên núi và ngồi đó với các môn đệ. (4) Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Dothái.
(5) Ngước mắt lên, Ðức Giêsu nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Người hỏi ông Philípphê: "Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?" (6) Người nói thế là để thử ông, chứ Người đã biết mình sắp làm gì rồi. (7) Ông Philípphê đáp: "Thưa có mua đến hai trăm đồng bạc bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút". (8) Một trong các môn đệ, là ông Anrê, anh ông Simon Phêrô, thưa với Người: (9) "Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với bằng ấy người thì thấm vào đâu!" (10) Ðức Giêsu nói: "Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi". Chỗ ấy có nhiều cỏ. Người ta ngồi xuống, nguyên số đàn ông đã tới khoảng năm ngàn. (11) Vậy, Ðức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ, Người cũng phân phát như vậy, ai muốn ăn bao nhiêu tùy ý. (12) Khi họ đã no nê rồi, Người bảo các môn đệ: "Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí đi". (13) Họ liền đi thu những miếng thừa của năm chiếc bánh lúa mạch người ta ăn còn lại, và chất đầy được mười hai thúng. (14) Dân chúng thấy dấu lạ Ðức Giêsu làm thì nói: "Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Ðấng phải đến thế gian!" (15) Nhưng Ðức Giêsu biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình.
Ðức Giêsu đi trên mặt Biển Hồ mà đến với các môn đệ
(16) Chiều đến, các môn đệ xuống bờ Biển Hồ, (17) rồi xuống thuyền đi về phía Caphácnaum bên kia Biển Hồ. Trời đã tối mà Ðức Giêsu chưa đến với các ông. (18) Biển động, vì gió thổi mạnh. (19) Khi đã chèo được chừng hai mươi lăm hoặc ba mươi chặng đường, các ông thấy Ðức Giêsu đi trên mặt Biển Hồ và đang tới gần thuyền. Các ông hoảng sợ.(20) Nhưng Người bảo các ông: "Chính Thầy đây, đừng sợ!" (21) Các ông muốn rước Người lên thuyền, nhưng ngay lúc đó thuyền đã tới bờ, nơi các ông định đến.

Diễn từ trong hội đường Ca-phác-na-um
(22) Hôm sau, đám đông dân chúng còn đứng ở bờ bên kia Biển Hồ, thấy rằng ở đó đã chỉ có một chiếc thuyền và Ðức Giêsu lại không cùng xuống thuyền đó với các môn đệ, nhưng chỉ có các ông ra đi mà thôi. (23) Tuy nhiên, có những thuyền khác từ Tibêria đến gần nơi dân chúng đã được ăn bánh sau khi Chúa dâng lời tạ ơn. (24) Vậy khi dân chúng thấy Ðức Giêsu cũng như các môn đệ đều không có ở đó, thì họ xuống thuyền đi Caphácnaum tìm kiếm Người. (25) Khi đã gặp thấy Người ở bên kia Biển Hồ, họ nói: "Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?" (26) Ðức Giêsu đáp:
"Thật, tôi bảo thật các ông,
các ông đi tìm tôi
không phải vì các ông đã thấy dấu lạ,
nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê.
(27) Các ông hãy ra công làm việc
không phải vì lương thực mau hư nát,
nhưng để có lương thực thường tồn
đem lại phúc trường sinh,
là thứ lương thực
Con Người sẽ ban cho các ông,
bởi vì chính Con Người là Ðấng
Thiên Chúa Cha đã ghi dấu xác nhận".
(28) Họ liền hỏi Người: "Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn?" (29) Ðức Giêsu trả lời: "Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Ðấng Người đã sai đến". (30) Họ lại hỏi: "Vậy chính ông, ông làm được dấu lạ nào cho chúng tôi thấy để tin ông? Ông sẽ làm gì đây? (31) Tổ tiên chúng tôi đã ăn manna trong sa mạc, như có lời chép:
Người đã cho họ ăn bánh từ trời".
(32) Ðức Giêsu đáp:
"Thật, tôi bảo thật các ông,
không phải ông Môsê đã cho các ông
ăn bánh bởi trời đâu,
mà chính là Cha tôi
cho các ông ăn bánh bởi trời, bánh đích thực,
(33) vì bánh Thiên Chúa ban
là bánh từ trời xuống,
bánh đem lại sự sống cho thế gian".
(34) Họ liền nói: "Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn mãi thứ bánh ấy". (35) Ðức Giêsu bảo họ:
"Chính tôi là bánh trường sinh.
Ai đến với tôi, không hề phải đói;
ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ!
(36) Nhưng tôi đã bảo các ông:
các ông đã thấy tôi mà không tin.
(37) Tất cả những người Chúa Cha ban cho tôi
đều sẽ đến với tôi,
và ai đến với tôi,
tôi sẽ không loại ra ngoài,
(38) vì tôi tự trời mà xuống,
không phải để làm theo ý tôi,
nhưng để làm theo ý Ðấng đã sai tôi.
(39) Mà ý của Ðấng đã sai tôi
là tất cả những kẻ Người đã ban cho tôi,
tôi sẽ không để mất một ai,
nhưng sẽ cho họ sống lại
trong ngày sau hết.
(40) Thật vậy, ý của Cha tôi
là tất cả những ai thấy người Con
và tin vào người Con,
thì được sống muôn đời,
và tôi sẽ cho họ sống lại
trong ngày sau hết".
(41) Người Dothái liền xầm xì phản đối, bởi vì Ðức Giêsu đã nói: "Tôi là bánh từ trời xuống". (42) Họ nói: "Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: "Tôi từ trời xuống?" Ðức Giêsu bảo họ:
"Các ông đừng có xầm xì với nhau!
(44) Chẳng ai đến với tôi được,
nếu Chúa Cha, là Ðấng đã sai tôi,
không lôi kéo người ấy,
và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại
trong ngày sau hết.
(45) Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ:
Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy dỗ.
Vậy phàm ai nghe và đón nhận
giáo huấn của Chúa Cha,
thì sẽ đến với tôi.
(46) Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu,
nhưng chỉ có Ðấng từ nơi Thiên Chúa mà đến,
chính Ðấng ấy đã thấy Chúa Cha.
(47) Thật, tôi bảo thật các ông,
ai tin thì được sự sống đời đời.
(48) Tôi là bánh trường sinh.
(49) Tổ tiên các ông đã ăn manna trong sa mạc,
nhưng đã chết.
(50) Còn bánh này là bánh từ trời xuống,
để ai ăn thì khỏi phải chết.
(51) Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống.
Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.
Và bánh tôi sẽ ban tặng,
chính là thịt tôi đây,
để cho thế gian được sống".
(52) Người Dothái liền tranh luận sôi nổi với nhau. Họ nói: "Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?" (53) Ðức Giêsu nói với họ:
"Thật, tôi bảo thật các ông:
nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người,
các ông không có sự sống nơi mình.
(54) Ai ăn thịt và uống máu tôi,
thì được sống muôn đời,
và tôi sẽ cho người ấy sống lại
vào ngày sau hết,
(55) vì thịt tôi thật là của ăn,
và máu tôi thật là của uống.
(56) Ai ăn thịt và uống máu tôi,
thì ở lại trong tôi,
và tôi ở lại trong người ấy.
(57) Như Chúa Cha là Ðấng hằng sống đã sai tôi,
và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào,
thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi
mà được sống như vậy.
(58) Ðây là bánh từ trời xuống,
không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn,
và họ đã chết.
Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời".
(59) Ðó là những điều Ðức Giêsu đã nói khi giảng dạy trong hội đường, ở Caphácnaum.
(60) Nghe rồi, nhiều môn đệ của Người liền nói: "Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?" (61) Nhưng Ðức Giêsu tự mình biết được là các môn đệ đang xầm xì về vấn đề ấy, Người bảo các ông: "Ðiều đó, anh em lấy làm chướng , không chấp nhận được ư? (62) Thế thì anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao?
(63) Thần khí mới làm cho sống,
chứ xác thịt chẳng có ích gì.
Lời Thầy nói với anh em
là thần khí và là sự sống.
(64) Nhưng trong anh em có những kẻ không tin". Quả thật, ngay từ đầu, Ðức Giêsu đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người. (65) Người nói tiếp: "Vì thế, Thầy bảo anh em: không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho". (66) Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Người nữa.
Ông Phê-rô tuyên xưng lòng tin
(67) Vậy Ðức Giêsu hỏi Nhóm Mười Hai: "Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?" (68) Ông Simon Phêrô liền đáp: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. (69) Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Ðấng Thánh của Thiên Chúa". (70) Ðức Giêsu đáp: "Chẳng phải Thầy đã chọn anh em là Nhóm Mười Hai sao? Thế mà một người trong anh em lại là quỷ!" (71) Người muốn nói về Giuđa, con ông Simon Ítcariốt; thật thế, chính y, một môn đệ trong Nhóm Mười Hai, sẽ nộp Người. 
CHIA SẺ


Các môn đệ đối diện với ba bài kiểm tra vì đám đông dân chúng theo Đức Giêsu.

Nuôi đám đông (c.1–14). Philip nghĩ câu trả lời là vấn đề tiền bạc, nhưng Andrê đã thấy câu trả lời nơi một cậu bé với phần ăn trưa của mình. Khi bạn đối diện với một vấn đề dường như không thể giải quyết được, hãy kêu lên lời hứa ở trong câu 6, hãy trao điều bạn có cho Đức Giêsu, và hãy để Ngài nói với bạn điều phải làm. Mẹ Teresa Calcuta có nói: “Chúng ta có thể cho mà không yêu, nhưng chúng ta không thể yêu mà không cho.” Bạn có dám trao phần bé nhỏ, nhưng có thể gây thiệt hại lớn cho bạn để đám đông và trong đó có bạn được no nê?

Tách khỏi đám đông (c.15–21). Biến cố này xảy ra tại đỉnh cao sự nổi tiếng của Chúa. Các môn đệ (đặc biệt Giuđa) đã được đón chào vào một vương quốc, vì thế Đức Giêsu đưa họ vào trong một cơn bão. Họ đi từ sự nổi tiếng đến tình trạng nguy hiểm, nhưng họ an toàn hơn trong cơn bão so với ở giữa đám đông; và Đức Giêsu đã đến với họ và gặp họ khi họ đang cần (Is 43:2). Liệu bạn có thể tuân theo ý Ngài ngay cả khi bạn không đồng ý với Ngài?

Sang bờ bên kia  (c.22–71). Dân chúng muốn Chúa đáp ứng nhu cầu thể lý của họ, chứ không phải nhu cầu thiêng liêng. Bánh Manna (Xh 16) đến với người Do thái chỉ để duy trì cuộc sống thể lý, nhưng Đức Giêsu đã đến với toàn thể thế giới và trao ban sự sống vĩnh hằng. Giống như bạn đưa thức ăn vào trong thân xác của bạn, cũng vậy bạn đưa Đức Kitô vào trong đời sống của bạn; và Ngài trở nên một với bạn. Các môn đệ đã có cơ hội để ở với đám đông, nhưng Đức Giêsu đã buộc họ rời bỏ đám đông. Có vẻ như ở lại bên bờ này sẽ có đám đông và có cả Đức Giê-su, nhưng nếu các môn đệ ở lại thì ngày hôm sau đám đông cũng không còn và Đức Giê-su cũng không có ở đó, vì Ngài cũng sẽ sang bờ bên kia. Đáo bỉ ngạn hay sang bờ bên kia là một hành trình thiêng liêng xảy ra liên tục trong đời sống chúng ta. Bạn có thấy mình được Chúa mời gọi bước sang một bờ bên kia: một công việc khác, một lãnh vực khác, một cuộc sống khác…?