Các
tư tế và thầy Lê-vi trở về dưới thời ông Dơ-rúp-ba-ven
và Giê-su-a
1
Ðây là những tư tế và những thầy Lê-vi đã hồi hương
cùng với Dơ-rúp-ba-ven, con của San-ti-ên, và cùng với
Giê-su-a: Xơ-ra-gia, Giếc-mơ-gia, Ét-ra,
2 A-mác-gia, Ma-lúc, Khát-tút, 3 Sơ-khan-gia, Rơ-khum, Mơ-rê-mốt, 4 Ít-đô, Ghin-thôi, A-vi-gia, 5 Mi-gia-min, Ma-át-gia, Bin-ga, 6 Sơ-ma-gia và Giô-gia-ríp, Giơ-đa-gia, 7 Xa-lu, A-móc, Khin-ki-gia, Giơ-đa-gia.
2 A-mác-gia, Ma-lúc, Khát-tút, 3 Sơ-khan-gia, Rơ-khum, Mơ-rê-mốt, 4 Ít-đô, Ghin-thôi, A-vi-gia, 5 Mi-gia-min, Ma-át-gia, Bin-ga, 6 Sơ-ma-gia và Giô-gia-ríp, Giơ-đa-gia, 7 Xa-lu, A-móc, Khin-ki-gia, Giơ-đa-gia.
Những
người này là thủ lãnh các tư tế và anh em đồng tộc của
họ vào thời ông Giê-su-a. 8
Các thầy Lê-vi là Giê-su-a, Bin-nui, Cát-mi-ên, Sê-rếp-gia,
Giơ-hu-đa, Mát-tan-gia; ông này cùng với anh em đồng tộc mình
đảm trách các bài hát tạ ơn, 9 đang khi ông
Bác-búc-gia,
ông Un-ni và anh em đồng tộc đứng đối diện với họ tuỳ
theo chức vụ.
Gia
phả các thượng tế từ năm 520 đến năm 405
10
Giê-su-a sinh Giô-gia-kim, Giô-gia-kim sinh En-gia-síp, En-gia-síp sinh
Gio-gia-đa, 11 Gio-gia-đa sinh Giô-na-than, Giô-na-than sinh
Giát-đu-a.
Các
tư tế và các thầy Lê-vi thời thượng tế Giô-gia-kim
12
Vào thời thượng tế Giô-gia-kim, các tư tế đứng đầu
các gia tộc là các ông: Mơ-ra-gia, gia tộc Xơ-ra-gia; Kha-nan-gia,
gia tộc Giếc-mơ-gia; 13 Mơ-su-lam, gia tộc Ét-ra;
Giơ-hô-kha-nan,
gia tộc A-mác-gia; 14 Giô-na-than, gia tộc Ma-lúc;
Giô-xếp, gia
tộc Sơ-van-gia; 15 Át-na, gia tộc Kha-rim; Khen-cai, gia tộc
Mơ-ra-giốt; 16 Dơ-khác-gia, gia tộc Ít-đô; Mơ-su-lam, gia tộc
Ghin-thôn; 17 Dích-ri, gia tộc A-vi-gia;..., gia tộc Min-gia-min;
Pin-tai, gia tộc Mô-át-gia; 18 Sam-mu-a, gia tộc Bin-ga;
Giơ-hô-na-than, gia tộc Sơ-ma-gia; 19 Mát-tơ-nai, gia tộc
Giô-gia-ríp; Út-di, gia tộc Giơ-đa-gia; 20 Ca-lai, gia tộc
Xa-lai; Ê-ve, gia tộc A-móc; 21 Kha-sáp-gia, gia tộc
Khin-ki-gia; Nơ-than-ên,
gia tộc Giơ-đa-gia.
22
Vào thời các ông En-gia-síp, Gio-gia-đa, Giô-kha-nan và
Giát-đu-a, những người đứng đầu các gia tộc và các tư
tế đều được ghi tên cho đến triều đại vua Ða-ri-ô,
người Ba-tư.
23
Sau đây là các con cháu ông Lê-vi:
Những
người đứng đầu các gia tộc đều được ghi tên vào
sách Sử biên niên cho đến thời ông Giô-kha-nan, con ông En-gia-síp.
24
Thủ lãnh các thầy Lê-vi là các ông: Kha-sáp-gia,
Sê-rếp-gia, Giê-su-a, Bin-nui, Cát-mi-ên, và các anh em đồng
tộc của họ là những người đứng đối diện với họ
để ngợi khen và cảm tạ Thiên Chúa, theo lệnh vua Ða-vít,
người của Thiên Chúa, 25 Mát-tan-gia, Bác-búc-gia,
Ô-vát-gia, Mơ-su-lam; còn các thầy Tan-môn và Ắc-cúp là những người
giữ cửa, thì canh các nhà kho gần các cửa.
26
Những người này sống dưới thời Giô-gia-kim, con của
Giê-su-a, ông này là con của Giô-xa-đắc, và dưới thời
ông Nơ-khe-mi-a, tổng đốc, cũng như dưới thời ông Ét-ra,
tư tế và kinh sư.
Khánh
thành tường thành Giê-ru-sa-lem
27
Dịp khánh thành tường thành Giê-ru-sa-lem, người ta tìm các
thầy Lê-vi từ khắp nơi họ ở, đưa về Giê-ru-sa-lem để
mừng lễ khánh thành trong niềm hân hoan, giữa tiếng hát
ngợi khen hoà với não bạt và cung đàn nhịp sáo. 28 Con cháu
các ca viên tụ họp nhau lại từ vùng chung quanh Giê-ru-sa-lem,
từ các thôn làng của người Nơ-tô-pha, 29 từ Bết Ha
Ghin-gan, từ đồng ruộng ở Ghe-va và Át-ma-vét, vì các ca
viên đã lập ra các thôn làng chung quanh Giê-ru-sa-lem. 30 Các
tư tế và các thầy Lê-vi đã tự thanh tẩy, rồi thanh tẩy
dân, cửa thành và tường thành.
31
Bấy giờ tôi đưa các thủ lãnh Giu-đa lên tường thành và
chia hai đoàn rước lớn. Ðoàn thứ nhất đi về phía tay mặt
bên trên tường thành, hướng về phía cửa Rác. 32 Ði sau
đoàn này, có ông Hô-sa-gia và một nửa hàng thủ lãnh
Giu-đa. 33 Cùng các ông A-dác-gia, Ét-ra, Mơ-su-lam, 34
Giơ-hu-đa, Ben-gia-min, Sơ-ma-gia và Giếc-mơ-gia 35 là những người thuộc
hàng tư tế và có mang theo kèn; rồi lại có ông Dơ-khác-gia
(Dơ-khác-gia là con của Giô-na-than, Giô-na-than con của Sơ-ma-gia,
Sơ-ma-gia con của Mát-tan-gia, Mát-tan-gia con của Mi-kha-gia, Mi-kha-gia
con của Dắc-cua, Dắc-cua con của A-xáp) 36 và các anh em đồng
tộc của ông là Sơ-ma-gia, A-dác-ên, Mi-la-lai, Gi-la-lai, Ma-ai,
Nơ-than-ên, Giơ-hu-đa, Kha-na-ni, có mang theo những nhạc cụ của
vua Ða-vít, người của Thiên Chúa. Kinh sư Ét-ra đi dẫn đầu.
37 Ðến cửa Suối họ tiến thẳng về phía trước, leo
lên các bậc thang của Thành vua Ða-vít, rồi tiếp tục đi lên
bờ tường thành, phía trên đền vua Ða-vít, cho đến cửa
Nước ở phía đông.
38
Ðoàn thứ hai đi về phía tay trái: tôi theo sau cùng với một
nửa hàng thủ lãnh của dân, dọc bờ tường thành, phía
trên tháp Lò cho đến Tường Rộng, 39 rồi phía trên cửa
Ép-ra-im, cửa Giơ-sa-na và cửa Cá; phía trên tháp Kha-na-ên
và tháp Trăm, cho đến cửa Chiên. Mọi người dừng lại
ở cửa Lao Xá.
40
Sau đó, cả hai đoàn kiệu dừng lại ở Nhà Thiên Chúa.
Cùng đi với tôi, có một nửa hàng quan chức 41 và các tư
tế là các ông: En-gia-kim, Ma-a-xê-gia, Min-gia-min, Mi-kha-gia, En-giô-ê-nai,
Dơ-khác-gia, Kha-nan-gia (các vị này có mang theo kèn), 42
Ma-a-xê-gia, Sơ-ma-gia, E-la-da, Út-di, Giơ-hô-kha-nan, Man-ki-gia, Ê-lam và
Ê-de.
Các ca viên hát vang lên dưới quyền điều khiển của
Gít-rác-gia. 43 Ngày hôm ấy, người ta dâng những lễ vật
quý giá và vui mừng hoan hỷ, vì Thiên Chúa đã cho họ
được hưởng niềm vui, một niềm vui lớn lao. Cả phụ nữ
lẫn thiếu nhi cũng đều vui mừng hoan hỷ. Và niềm vui của
Giê-ru-sa-lem đã lan rộng ra xa.
Một
thời kỳ lý tưởng
44
Thời ấy, có những người được đặt lên trông coi các
phòng dùng để chứa những của trích dâng, của đầu mùa
và thuế thập phân, cũng như để thu gom những phần dành cho
các tư tế và các thầy Lê-vi lấy từ đồng ruộng của các
thành theo Luật quy định. Quả thật, Giu-đa lấy làm vui vì các
tư tế và các thầy Lê-vi đang tại chức. 45 Các nhân vật
này cũng như các ca viên và những người giữ cửa đều
lo việc thờ phượng Thiên Chúa và việc thanh tẩy theo lệnh
vua Ða-vít và con vua là Sa-lô-môn. 46 Thật thế, thuở xưa vào
thời vua Ða-vít, lúc ông A-xáp đứng đầu các ca viên, đã
có những bài ca ngợi khen cảm tạ Thiên Chúa. 47 Vào thời
ông Dơ-rúp-ba-ven và ông Nơ-khe-mi-a, toàn dân Ít-ra-en ngày
ngày vẫn dâng các phần dành cho các ca viên và những
người giữ cửa. Họ dâng cho các thầy Lê-vi những phần
của thánh; còn các thầy Lê-vi thì dâng những phần của
thánh cho con cháu ông A-ha-ron.
CHIA SẺ
Hoàn tất. Bất kỳ việc gì chúng ta làm cho Thiên Chúa mà thành công là do bởi
Ngài đang hoạt động nơi chúng ta (Pl 2:12-13). Vì thế, công việc đó phải được
dâng lên cho Ngài để tôn vinh danh Ngài. Nếu không chúng ta có thể trở nên kiêu
ngạo, và công việc trở thành một hình thức ngẫu tượng đó là chúng ta lấy đi vị
trí của cuộc sống của chúng ta (Đnl 8:11-20).
Mừng lễ. Điểm nhấn ở đây là niềm vui và
tạ ơn Thiên Chúa. Công việc đã kết thúc, kẻ thù đã bị hạ nhục, và Đức Chúa đã
được tôn vinh; vì thế tại sao lại không mừng vui ? Ne-khe-mi-a và Ét-ra, mỗi
người hướng dẫn một đoàn khi họ hát trên đường đi vòng quanh tường thành và đã
gặp nhau tại khu vực Đền thờ. Âm thanh của niềm vui “đã lan rộng ra xa” (c.43;
Et 3:12-13).
Thanh tẩy. Việc hiến thánh tường thành liệu
có giá trị gì nếu không đi kèm với một dân tộc được hiến thánh ? Câu 30 song
song với Is 1:16 và 2Cr 7:1. Một dân tộc đang ca hát phải là một dân tộc được hiến
thánh.
Giống như
những người Do thái bị lưu đày, chúng ta bắt đầu từ một nơi tàn lụi với những
hậu quả của tội lỗi, nơi mà nhìn qua có vẻ như không có niềm hy vọng, chúng ta
được sinh ra trong một hoàn cảnh, nơi đó chúng ta bị tách rời khỏi Thiên Chúa.
Nhưng Thiên Chúa đã gọi chúng ta và có những kế hoạch cho mỗi người chúng ta. Cho
dù trong suốt những năm qua với bao nhiêu khó khăn trong cuộc sống, chúng ta cùng hoan hỉ dâng lên Thiên Chúa tâm tình tạ ơn về
tất cả những gì Ngài đã ban cho mỗi người chúng ta, mỗi gia đình, mỗi cộng đoàn…
trong suốt những năm qua. Điều gì mà bạn cảm thấy được thúc đẩy nhất để trong giờ cầu nguyện này bạn được mời gọi cất lời tạ ơn Thiên Chúa với biết bao ơn lành Ngài đã ban cho bạn?
" Ngợi khen cảm tạ Thiên Chúa"
Trả lờiXóaMỗi lúc về đêm và mỗi sớm mai thức dậy, con đều nhận thấy Chúa thương con đến nhường nào. " Cảm ơn Ngài mỗi sớm mai thức dậy, con có một ngày để được yêu thương"
Biết bao người, đêm ngủ rồi sáng cũng ngủ luôn bất động, nên sáng mở mắt được là con cảm thấy biết ơn nhiều lắm. Rồi dẫu trong ngày có bao nhiêu biến cố mà về đêm được nằm kiểm đếm lại một ngày trôi qua, con lại một lần nữa nhìn thấy Chúa như bên cạnh con. Đôi khi, nhìn lại thấy " sao mình xử lí hay vậy ta? Đem lòng kiêu ngạo nữa chớ, đắc chí." May đâu những lúc như thế, Chúa lại giật dây, cảm ơn Chúa nhiều lắm.
Nhất là những lúc có một điều gì làm con gợi nhớ về xuất thân hay quá khứ, hay 1 biến cố đã qua trong đời, Con lại nhận ra " ko phải con đã chọn Chúa mà chính Ngài yêu con từ trước. Tự lúc con chưa nhận biết Ngài, Ngài yêu con, tự lâu rồi Ngài đã chọn con"
Thật nhìn lại, tất cả là "không tưởng" với con. Con cảm nhận được, ko phải con làm, mà chính Chúa đã làm trong con.
Xin Chúa nhận nơi con một Lời biết ơn chân thành tự tâm cam của nơi đáy lòng con.
Xin Chúa mãi song hành.
Tạ ơn Chúa! Mãi yêu Ngài.
Amen.