Thứ Hai, 26 tháng 1, 2015

CHƯƠNG 4 - Tin Mừng theo Thánh Gioan

 Ðức Giêsu tại Sa-ma-ri
(1) Nhóm Pharisêu nghe tin Ðức Giêsu thâu nạp và làm phép rửa cho nhiều môn đệ hơn ông Gioan. (2) (Thực ra, không phải chính Ðức Giêsu làm phép rửa, nhưng là các môn đệ của Người). (3) Biết thế, Ðức Giêsu bỏ miền Giuđê mà trở lại miền Galilê. (4) Do đó, Người phải băng qua Samari. (5) Vậy, Người đến một thành xứ Samari, tên là Xykha, gần thửa đất ông Giacóp đã cho con là ông Giuse. (6) Ở đấy, có giếng của ông Giacóp. Người đi đường mỏi mệt, nên ngồi ngay xuống bờ giếng. Lúc đó vào khoảng mười hai giờ trưa.
(7) Có một người phụ nữ Samari đến lấy nước. Ðức Giêsu nói với người ấy: "Chị cho tôi xin chút nước uống!" (8) Quả thế, các môn đệ của Người đã vào thành mua thức ăn. (9) Người phụ nữ Samari liền nói: "Ông là người Dothái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao?" Quả thế, người Dothái không được giao thiệp với nguòi Samari. (10) Ðức Giêsu trả lời:
"Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban,
và ai là người nói với chị:
"Cho tôi chút nước uống",
thì hẳn chị đã xin,
và người ấy ban cho chị nước hằng sống".
(11) Chị ấy nói: "Thưa ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống? (12) Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ Giacóp chúng tôi, là người đã cho chúng tôi giếng này? Chính Người đã uống giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy". (13) Ðức Giêsu trả lời:
"Ai uống nước này,
sẽ lại khát.
(14) Còn ai uống nước tôi cho,
sẽ không bao giờ khát nữa.
Và nước tôi cho
sẽ trở thành nơi người ấy
một mạch nước vọt lên,
đem lại sự sống đời đời".
(15) Người phụ nữ nói với Ðức Giêsu: "Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước". (16) Người bảo chị ấy: "Chị hãy gọi chồng chị, rồi trở lại đây". (17) Người phụ nữ đáp: "Tôi không có chồng". Ðức Giêsu bảo: "Chị nói: 'Tôi không có chồng' là phải, (18) vì chị đã năm đời chồng rồi, và hiện người đang sống với chị không phải là chồng chị. Chị đã nói đúng". (19) Người phụ nữ nói với Người: "Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ... (20) Cha ông chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên núi này; còn các ông lại bảo: Giêrusalem mới chính là nơi thờ phượng Thiên Chúa". (21) Ðức Giêsu phán:
"Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ
các người sẽ thờ phượng Chúa Cha,
không phải trên núi này
hay tại Giêrusalem.
(22) Các người thờ Ðấng các người không biết;
còn chúng tôi thờ Ðấng chúng tôi biết,
vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Dothái.
(23) Nhưng giờ đã đến - và chính lúc này đây
giờ những người thờ phượng đích thực
sẽ thờ phượng Chúa Cha
trong thần khí và sự thật,
vì Chúa Cha tìm kiếm
những ai thờ phượng Người như thế.
(24) Thiên Chúa là thần khí,
và những kẻ thờ phượng Người
phải thờ phượng trong thần khí và sự thật".
(25) Người phụ nữ thưa: "Tôi biết Ðấng Mêsia, gọi là Ðức Kitô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự". (26) Ðức Giêsu nói: "Ðấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây".
(27) Vừa lúc đó, các môn đệ trở về. Các ông ngạc nhiên vì thấy Người nói chuyện với một phụ nữ. Tuy thế, không ai dám hỏi: "Thầy cần gì vậy?" Hoặc "Thầy nói gì với chị ấy?" (28) Người phụ nữ để vò nước lại, vào thành và nói với người ta: (29) "Ðến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Ðấng Kitô sao?" (30) Họ ra khỏi thành và đến gặp Người.
(31) Trong khi đó, các môn đệ thưa với Người rằng: "Rápbi, xin mời Thầy dùng bữa". (32) Người nói với các ông: "Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết". (33) Các môn đệ mới hỏi nhau: "Ðã có ai mang thức ăn đến cho Thầy rồi chăng?" (34) Ðức Giêsu nói với các ông:
"Lương thực của Thầy
là thi hành ý muốn của Ðấng đã sai Thầy,
và hoàn tất công trình của Người.
(35) Nào anh em chẳng nói:
Còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt?
Nhưng này, Thầy bảo anh em:
Ngước mắt lên mà xem,
đồng lúa đã chín vàng
đang chờ ngày gặt hái!
(36) Ai gặt thì lãnh tiền công
và thu hoa lợi để được sống muôn đời,
và như thế, cả người gieo lẫn kẻ gặt
đều hớn hở vui mừng.
(37) Thật vậy, câu tục ngữ "kẻ này gieo, người kia gặt"
quả là đúng!
(38) Thầy sai anh em đi gặt
những gì chính anh em đã không phải vất vả làm ra.
Người khác đã làm lụng vất vả;
còn anh em, anh em được vào hưởng
kết quả công lao của họ".
(39) Có nhiều người Samari trong thành đó đã tin vào Ðức Giêsu, vì lời người phụ nữ làm chứng: ông ấy nói với tôi mọi việc tôi đã làm. (40) Vậy, khi đến gặp Người, dân Samari xin Người ở lại với họ, và Người đã ở lại đó hai ngày. (41) Số người tin vì lời Ðức Giêsu nói còn đông hơn nữa. (42) Họ bảo người phụ nữ: "Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Ðấng cứu độ trần gian".
Ðức Giêsu ở Ga-li-lê
(43) Sau hai ngày, Ðức Giêsu bỏ nơi đó đi Galilê. (44) Chính Người đã quả quyết: ngôn sứ không được tôn trọng tại quê hương mình. (45) Khi người đến Galilê, dân chúng trong miền đón tiếp Người, vì đã chứng kiến tất cả những gì Người làm tại Giêrusalem trong dịp lễ, bởi lẽ chính họ cũng đã đi dự lễ.
Dấu lạ thứ hai ở Cana:
Ðức Giêsu chữa con của một sĩ quan cận vệ của nhà vua
(46) Vậy Người trở lại Cana miền Galilê, là nơi Người đã làm cho nước hóa thành rượu. Bấy giờ có một sĩ quan cận vệ của nhà vua có đứa con trai đang bị bệnh tại Caphácnaum. (47) Khi nghe tin Ðức Giêsu từ Giuđê đến Galilê, ông tới gặp và xin Người xuống chữa con ông vì nó sắp chết. (48) Ðức Giêsu nói với ông: "Nếu không thấy dấu lạ điềm thiêng, các ông sẽ chẳng tin đâu!" (49) Viên sĩ quan nói: "Thưa Ngài, xin Ngài xuống cho, kẻo cháu nó chết mất!" (50) Ðức Giêsu bảo: "Ông cứ về đi, con ông sống". Ông tin vào lời Ðức Giêsu nói với mình, và ra về. (51) Ông còn đang đi xuống, thì gia nhân đã đón gặp và nói là con ông sống rồi. (52) Ông hỏi họ con ông đã bắt đầu khá hơn vào giờ nào. Họ đáp: "Hôm qua, vào lúc một giờ trưa thì cậu hết sốt". (53) Người cha nhận ra là vào đúng giờ đó, Ðức Giêsu đã nói với mình: "Con ông sống", nên ông và cả nhà đều tin. (54) Ðó là dấu lạ thứ hai Ðức Giêsu đã làm, khi Người từ miền Giuđê đến miền Galilê.

CHIA SẺ

    Khát (c.1-26). Bởi vì Đức Giêsu là một con người thực sự, Ngài đã trải qua sự mệt mỏi, đói, và khát, nhưng ước vọng sâu nhất vẫn là ơn cứu độ cho người phụ nữ. Ngài đã quên những nhu cầu thể lý của mình và tập trung vào nhu cầu thiêng liêng của chị.  Một cách kiên nhẫn Ngài mặc khải về chính Ngài cho chị: “một người Do thái” (c.9), “cao trọng hơn Giacóp” (c.12), “một ngôn sứ” (c.19), “Đấng Messia” (c.25,29). Chị đã tin vào Ngài, và cuộc sống của chị đã được biến đổi đến mức chị ngay tức khắc chia sẻ tin mừng cho những người khác (20:30-31). Chúa Giê-su biết người phụ nữ sẽ đến bên giếng Gia-cốp và Ngài chờ đợi cô để Ngài có thể dạy dỗ cô ấy và cho cô ấy cơ hội để sống một cuộc sống của người môn đệ. Đâu là nơi mà Thiên Chúa vẫn chờ đợi tôi để cho tôi cơ hội được nhận ra cơn khát thật của đời mình và Ngài giúp tôi thỏa mãn những cơn khát ấy?

    Đói (c.27-42). Thánh ý của Thiên Chúa phải là lương thực nuôi dưỡng chúng ta, không phải là liều thuốc làm chúng ta phiền muộn. Các môn đệ đã được thỏa mãn với lương thực trần gian, nhưng Đức Giêsu muốn được no thỏa với lương thực thiêng liêng từ Thiên Chúa. Ý của Thiên Chúa ban cho chúng ta sức mạnh cần thiết để chúng ta thi hành nhiệm vụ trong mùa gặt bội thu xung quanh chúng ta. Thiên Chúa muốn chia sẻ lương thực thiết yếu với chúng ta bằng cách cho chúng ta tham gia vào những gì Ngài đang làm trên thế giới này. Thế giới vẫn còn nhiều người đang đói thực phẩm trần thế, nhưng cơn đói khát thiêng liêng vẫn hành hạ con người. Bạn có sẵn sàng chia sẻ để làm dịu cơn đói thiêng liêng của nhân loại hiện nay?

    Sức khỏe (c.43-54). Ơn cứu độ dành cho phần hồn, còn sức khỏe thì cho phần xác. Em bé trai đáng lý phải chết, nếu Đức Giêsu không can thiệp và chữa lành cho em. Người cha đã nghe (c.47), đã tin (c.50), và đã biết (c.53), đây là những kinh nghiệm vẫn thường xảy ra trong mỗi người Kitô hữu chúng ta. Qua những biến cố xảy ra trong mỗi ngày sống của mình có giúp củng cố đời sống đức tin của bạn vào Thiên Chúa?

    Chinh phục. Đức Giêsu đã chinh phục người phụ nữ, người phụ nữ đã chinh phục nhiều người phụ nữ Samaritan; và người cha đã chinh phục cả nhà ông. Bạn có bận rộn với mùa gặt của Thiên Chúa?

1 nhận xét:

  1. Matta Maria Cẩm Túlúc 20:34 1 tháng 6, 2022

    CHƯƠNG 4 - Tin Mừng theo Thánh Gioan

    "Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban,
    và ai là người nói với chị:
    "Cho tôi chút nước uống",
    thì hẳn chị đã xin,
    và người ấy ban cho chị nước hằng sống".

    "Ðấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây".

    Con trong vai người phụ nữ, lắng nghe LC nói với lòng mình, đọc và nghe bằng Tâm, con cảm nhận được sự an ủi. Hình dung nếu con là người nữ ấy, ko dám gặp Cha mẹ or Thầy cô/ bạn bè mình, chứ đừng nói đứng trước Đấng quyền năng. Yêu Chúa và học Chúa ở chổ rất tử tế, lúc nào cũng khe khẽ, Lời như rót mật vào cái chai mà dùng bằng kim tiêm í, đã là mật mà còn phải nhẹ nhàng đến mọi sự không có tiếng rung mí chịu.

    Ước chi con được cảm nhận Tình yêu Thiên Chúa đến dạy con như nào, đối xử với con như nào khi con bất xứng, để con biết học mà áp dụng vào những tình huống cụ thể xảy ra trong cuộc sống của mình, mà ứng xử or giải quyết vấn đề trong yêu thương của Lời.

    Khó lắm để làm bài tập áp dụng, nhiều khi Lời mỗi ngày làm cho con khựng lại vài nhịp chứ thật mà ko có đạo chắc con bùm theo cá tính mạnh mẽ, nữ quyền của bản thân là con SỰC liền. Song hành cùng con, Chúa nha. Yêu em nha Anh Đại, Chị Đại!. Mỗi lần đứng trước MẸ, con cảm thấy MẸ luôn mĩm cười yêu thương sự yếu đuối mong manh của con. Ban ơn thêm sức cho con.

    Tạ ơn Chúa, cảm ơn MẸ!🥰

    Trả lờiXóa

Kính mời quý ACE chia sẻ cảm nhận hoặc nêu thắc mắc ở đây. Xin cám ơn.
HHTLC