Thứ Bảy, 17 tháng 11, 2012

CHƯƠNG 06 - SỬ BIÊN NIÊN 1

Con cháu ông Lê-vi
1 Các con ông Lê-vi là Ghéc-sôm, Cơ-hát, Mơ-ra-ri.
2 Ðây là tên các con ông Ghéc-sôm: Líp-ni, Sim-y. 3 Các con ông Cơ-hát là: Am-ram, Gít-ha, Khép-rôn, Út-di-ên. 4 Các con ông Mơ-ra-ri là: Mác-li, Mu-si.

Ðó là các thị tộc người Lê-vi theo tổ tiên họ.
5 Thuộc về ông Ghéc-sôm có Líp-ni con ông, Gia-khát con ông, Dim-ma con ông. 6 Giô-ác con ông, Ít-đô con ông, De-rác con ông, Giơ-át-rai con ông.
7 Các con ông Cơ-hát là: Am-mi-na-đáp con ông, Cô-rắc con ông, Át-xia con ông, 8 En-ca-na con ông, Ép-gia-xáp con ông, Át-xia con ông, 9 Ta-khát con ông, U-ri-ên con ông, Út-di-gia con ông, Sa-un con ông. 10 Các con ông En-ca-na là: A-ma-xai và A-khi-mốt, 11 En-ca-na con ông, Xô-phai con ông, Na-khắt con ông, 12 Ê-li-áp con ông, Giơ-rô-kham con ông, En-ca-na. 13 Các con ông En-ca-na là: Sa-mu-en con trưởng và A-vi-gia con thứ.
14 Các con ông Mơ-ra-ri là: Mác-li, Líp-ni con ông, Sim-y con ông, Út-da con ông, 15 Sim-a con ông, Khác-ghi-gia con ông, A-xa-gia con ông.

Các ca sĩ
16 Ðây là những người vua Ða-vít đã đặt lên điều khiển việc ca hát trong Nhà Ðức Chúa, sau khi Hòm Bia an vị tại đó. 17 Công việc của họ trước Nhà Lều Hội Ngộ là ca hát, cho tới khi vua Sa-lô-môn xây Ðền Thờ Ðức Chúa tại Giê-ru-sa-lem; họ thi hành luật dịch vụ theo luật lệ của họ.
18 Ðây là những người thi hành công tác và con cái họ.
Trong số các con ông Cơ-hát có Hê-man ca trưởng, con của Giô-en, con của Sa-mu-en, 19 con của En-ca-na, con của Giơ-rô-kham, con của Ê-li-ên, con của Tô-ác, 20 con của Xúp, con của En-ca-na, con của Ma-khát, con của A-ma-xai, 21 con của En-ca-na, con của Giô-en, con của A-dác-gia, con của Xơ-phan-gia, 22 con của Ta-khát, con của Át-xia, con của Ép-gia-xáp, con của Cô-rắc, 23 con của Gít-ha, con của Cơ-hát, con của Lê-vi, con của Ít-ra-en.
24 Em ông Hê-man là A-xáp đứng bên phải ông. A-xáp, con của Be-réc-gia-hu, con của Sim-a, 25 con của Mi-kha-ên, con của Ba-a-xê-gia, con của Man-ki-gia, 26 con của Ét-ni, con của De-rác, con của A-đa-gia, 27 con của Ê-than, con của Dim-ma, con của Sim-y, 28 con của Gia-khát, con của Ghéc-sôm, con của Lê-vi.
29 Các con ông Mơ-ra-ri, anh em của họ, đứng bên trái: Ê-than, con của Ki-si, con của Áp-đi, con của Ma-lúc, 30 con của Kha-sáp-gia, con của A-mát-gia, con của Khin-ki-gia, 31 con của Am-xi, con của Ba-ni, con của Se-me, 32 con của Mác-li, con của Mu-si, con của Mơ-ra-ri, con của Lê-vi.

Các người Lê-vi khác
33 Các thầy Lê-vi, anh em của họ, là những người được dâng hiến để thi hành mọi dịch vụ Nhà Tạm, Ðền Thờ của Thiên Chúa. 34 Ông A-ha-ron và các con là những người đốt lễ vật trên bàn thờ toàn thiêu và trên bàn thờ dâng hương; họ lo chu toàn mọi tác vụ cực thánh và cử hành nghi thức xá tội cho Ít-ra-en, theo đúng mọi điều ông Mô-sê, tôi tớ của Thiên Chúa đã truyền.
35 Ðây là các con ông A-ha-ron: E-la-da con ông, Pin-khát con ông, A-vi-su-a con ông, 36 Búc-ki con ông, Út-di con ông, Dơ-rác-gia con ông, 37 Mơ-ra-giốt con ông, A-mác-gia con ông, A-khi-túp con ông,38 Xa-đốc con ông, A-khi-ma-át con ông.

Nơi sinh sống của con cháu A-ha-ron
39 Ðây là nơi cư trú của họ, theo ranh giới các trại dành cho họ:
Vì con cháu ông A-ha-ron thuộc thị tộc Cơ-hát được phần nhất, 40 nên người ta cho họ vùng Khép-rôn trong đất Giu-đa, cùng với các đồng cỏ chung quanh. 41 Ðồng ruộng của thành ấy và các thôn làng thì người ta cho ông Ca-lếp con ông Giơ-phun-ne. 42 Nhưng người ta lại cho con cháu ông A-ha-ron các thành tị nạn là Khép-rôn và Líp-na với các đồng cỏ, Giát-tia, Ét-tơ-mô-a với các đồng cỏ, 43 Khi-lết với các đồng cỏ, Ðơ-via với các đồng cỏ, 44 A-san với các đồng cỏ, Bết Se-mét với các đồng cỏ. 45 Còn chi tộc Ben-gia-min thì người ta cho họ: Ghe-va với các đồng cỏ, A-le-mét với các đồng cỏ, A-na-tốt với các đồng cỏ. Tất cả các thành của họ là mười ba, tính theo số các thị tộc của họ.
 Nơi sinh sống của các người Lê-vi khác
46 Còn những người con khác của ông Cơ-hát thì bắt thăm được mười thành lấy từ chi tộc Ép-ra-im, chi tộc Ðan và nửa chi tộc Mơ-na-se. 47 Các con ông Ghéc-sôm, theo các thị tộc của họ, được mười ba thành lấy của chi tộc Ít-xa-kha, chi tộc A-se, chi tộc Náp-ta-li, chi tộc Mơ-na-se ở Ba-san. 48 Các con ông Mơ-ra-ri, theo các thị tộc của họ, rút thăm được mười hai thành lấy của chi tộc Rưu-vên, chi tộc Gát, chi tộc Dơ-vu-lun. 49 Con cái Ít-ra-en đã cấp cho các người Lê-vi các thành cùng với các đồng cỏ.
50 Người ta cũng rút thăm trao cho họ các thành lấy của chi tộc con cái Giu-đa, chi tộc con cái Si-mê-ôn, chi tộc con cái Ben-gia-min. Họ đã lấy tên mình mà đặt cho các thành ấy.
51 Một số các thị tộc con cái Cơ-hát đã rút thăm được các thành lấy của chi tộc Ép-ra-im. 52 Người ta cấp cho họ các thành trú ẩn sau đây: Si-khem với các đồng cỏ trong vùng núi Ép-ra-im, Ghe-de với các đồng cỏ, 53 Gióc-mơ-am với các đồng cỏ, Bết Khô-rôn với các đồng cỏ, 54 Ai-gia-lôn với các đồng cỏ, Gát Rim-môn với các đồng cỏ. 55 Và lấy thành A-ne với các đồng cỏ, và Bi-lơ-am với các đồng cỏ của một nửa chi tộc Mơ-na-se, để trao cho thị tộc những người con còn lại của ông Cơ-hát.
56 Phần dành cho các con ông Ghéc-sôm: lấy của các thị tộc thuộc một nửa chi tộc Mơ-na-se là Gô-lan ở Ba-san với các đồng cỏ, Át-ta-rốt với các đồng cỏ; 57 lấy của chi tộc Ít-xa-kha là Ke-đét với các đồng cỏ, Ða-vơ-rát với các đồng cỏ, 58 Ra-mốt với các đồng cỏ, A-nêm với các đồng cỏ; 59 lấy của chi tộc A-se là Ma-san với các đồng cỏ, Áp-đôn với các đồng cỏ, 60 Khu-cốc với các đồng cỏ, Rơ-khốp với các đồng cỏ; 61 lấy của chi tộc Náp-ta-li là Ke-đét ở Ga-li-lê với các đồng cỏ, Kham-môn với các đồng cỏ, Kia-giát-tha-gim với các đồng cỏ.
62 Phần dành cho các người con khác của ông Mơ-ra-ri: lấy của chi tộc Dơ-vu-lun là Rim-môn với các đồng cỏ, Ta-bo với các đồng cỏ. 63 Từ bên kia sông Gio-đan, gần Giê-ri-khô, phía đông sông Gio-đan; lấy của chi tộc Rưu-vên là Be-xe trong sa mạc với các đồng cỏ, Gia-hát với các đồng cỏ, 64 Cơ-đê-mốt với các đồng cỏ, Mê-pha-át với các đồng cỏ, 65 lấy của chi tộc Gát là Ra-mốt tại Ga-la-át với các đồng cỏ, Ma-kha-na-gim với các đồng cỏ, 66 Khét-bôn với các đồng cỏ, Gia-de với các đồng cỏ.
CHIA SẺ
      Chúng ta lưu ý trong chương này, không phải tất cả mọi người Lê-vi đều giống nhau. Những người là hậu duệ của A-ha-ron được ủy quyền để dâng hy lễ, nhưng những người còn lại chịu trách nhiệm liên quan đến lều tạm và đền thờ. Vào thời của Đa-vít, thượng tế được gọi tên là Sa-đốc (c.38). Nếu để ý, chúng ta sẽ thấy thượng tế Ê-li kết thúc với Ép-gia-tha (1V 2:27) và không còn tiếp tục được ghi lại trong gia phả này nữa.
Vì thế mà chúng ta dễ dàng nhận ra trong phần này chỉ có dòng họ A-ha-ron với chi của E-la-da là được liệt kê trong bản gia phả của các tư tế. Vào thời Tân Ước, những người Sa-đốc thuộc vào tầng lớp các tư tế. Trong thời này, các thượng tế đều xem mình là hậu duệ của Sa-đốc, và vì thế họ đều là những người thuộc nhóm Sa-đốc. Nhóm này không tin vào sự sống đời sau và phục sinh từ kẻ chết.
Từ câu 46 cho đến hết chương 6 liệt kê 48 thành là nơi cư trú của những người Lê-vi. Đây là một sự lập lại thông tin từ sách Giô-sua chương 21. Trong chương này các chi tộc được liệt kê theo những thành mà họ cư trú.
Khi lãnh bí tích thanh tẩy, chúng ta đều được tham dự vào chức vụ tư tế, bạn sống ơn gọi này như thế nào ?

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Kính mời quý ACE chia sẻ cảm nhận hoặc nêu thắc mắc ở đây. Xin cám ơn.
HHTLC