Thứ Sáu, 18 tháng 1, 2013

CHƯƠNG 02 - ÉT-RA

Danh sách những người Xi-on hồi hương (Nkm 7:4-72)
1 Ðây là những người trong miền đã từ chốn lưu đày hồi hương. Họ là những người mà Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua Ba-by-lon đã bắt đi đày sang Ba-by-lon. Họ trở về Giê-ru-sa-lem và Giu-đa,
ai về thành nấy. 2 Họ về cùng với các ông Dơ-rúp-ba-ven, Giê-su-a, Nơ-khe-mi-a, Xơ-ra-gia, Rơ-ê-la-gia, Moóc-đo-khai, Bin-san, Mít-pa, Bích-vai, Rơ-khum, Ba-a-na.
Ðây là số những người thuộc dân Ít-ra-en: 3 con cái ông Pác-ốt: hai ngàn một trăm bảy mươi hai; 4 con cái ông Sơ-phát-gia: ba trăm bảy mươi hai; 5 con cái ông A-rác: bảy trăm bảy mươi lăm; 6 con cái ông Pa-khát Mô-áp, tức là con cái ông Giê-su-a và ông Giô-áp: hai ngàn tám trăm mười hai; 7 con cái ông Ê-lam: một ngàn hai trăm năm mươi bốn; 8 con cái ông Dát-tu: chín trăm bốn mươi lăm; 9 con cái ông Dắc-cai: bảy trăm sáu mươi; 10 con cái ông Ba-ni: sáu trăm bốn mươi hai; 11 con cái ông Bê-vai: sáu trăm hai mươi ba; 12 con cái ông Át-gát: một ngàn hai trăm hai mươi hai; 13 con cái ông A-đô-ni-cam: sáu trăm sáu mươi sáu; 14 con cái ông Bích-vai: hai ngàn không trăm năm mươi sáu; 15 con cái ông A-đin: bốn trăm năm mươi bốn; 16 con cái ông A-te, tức là con cái ông Giơ-khít-ki-gia: chín mươi tám; 17 con cái ông Bê-xai: ba trăm hai mươi ba; 18 con cái ông Giô-ra: một trăm mười hai; 19 con cái ông Kha-sum: hai trăm hai mươi ba; 20 con cái ông Ghíp-ba: chín mươi lăm; 21 con cái ông Bê-lem: một trăm hai mươi ba; 22 người Nơ-tô-pha: năm mươi sáu; 23 người A-na-thốt: một trăm hai mươi tám; 24 con cái ông Át-ma-vét: bốn mươi hai; 25 con cái ông Kia-giát A-rim: ông Cơ-phi-ra và ông Bơ-ê-rốt: bảy trăm bốn mươi ba; 26 con cái ông Ra-ma và ông Ghe-va: sáu trăm hai mươi mốt; 27 người Mích-mát: một trăm hai mươi hai; 28 người Bết Ên và người Ai: hai trăm hai mươi ba; 29 con cái ông Nơ-vô: năm mươi hai; 30 con cái ông Mác-bít: một trăm năm mươi sáu; 31 con cái ông Ê-lam khác: một ngàn hai trăm năm mươi bốn; 32 con cái ông Kha-rim: ba-trăm hai mươi; 33 con cái các ông Lốt, Kha-đích và Ô-nô: bảy trăm hai mươi lăm; 34 con cái ông Giê-ri-khô: ba trăm bốn mươi lăm; 35 con cái ông Xơ-na-a: ba ngàn sáu trăm ba mươi.
36 Các tư tế: con cái ông Giơ-đa-gia thuộc nhà ông Giê-su-a: chín trăm bảy mươi ba; 37 con cái ông Im-me: một ngàn không trăm năm mươi hai; 38 con cái ông Pát-khua: một ngàn hai trăm bốn mươi bảy; 39 con cái ông Kha-rim: một ngàn không trăm mười bảy.
40 Các thầy Lê-vi: con cái các ông Giê-su-a và Cát-mi-ên, tức là con cái ông Hô-đáp-gia: bảy mươi bốn.
41 Các ca viên: con cái ông A-xáp: một trăm hai mươi tám.
42 Con cái những người giữ cửa: con cái ông Sa-lum, con cái ông A-te, con cái ông Tan-môn, con cái ông Ắc-cúp, con cái ông Kha-ti-ta, con cái ông Sô-vai: tất cả là một trăm ba mươi chín.
43 Những người phục vụ Ðền Thờ: con cái Xi-kha, con cái Kha-xu-pha, con cái Táp-ba-ốt, 44 con cái Kê-rốt, con cái Xi-a, con cái Pa-đôn, 45 con cái Lơ-va-na, con cái Kha-ga-va, con cái Ắc-cúp, 46 con cái Kha-gáp, con cái San-mai, con cái Kha-nan, 47 con cái Ghít-đên, con cái Ga-kha, con cái Rơ-a-gia, 48 con cái Rơ-xin, con cái Nơ-cô-đa, con cái Gát-dam, 49 con cái Út-da, con cái Pa-xê-ác, con cái Bê-xai, 50 con cái Át-na, con cái người Mơ-u-nim, con cái người Nơ-phu-xim, 51 con cái Bác-búc, con cái Kha-cúp-pha, con cái Khác-khua, 52 con cái Bát-lút, con cái Mơ-khi-đa, con cái Khác-sa, 53 con cái Bác-cốt, con cái Xít-ra, con cái Te-mác, 54 con cái Nơ-xi-ác, con cái Kha-ti-pha.
55 Con cái những người nô lệ của vua Sa-lô-môn: con cái Xô-tai, con cái Ha Xô-phe-rét, con cái Pơ-ru-đa, 56 con cái Gia-la, con cái Ðác-côn, con cái Ghít-đên, 57 con cái Sơ-phát-gia, con cái Khát-tin, con cái Pô-khe-rét Ha Xơ-va-gim, con cái A-mi. 58 Tổng số những người phục vụ Ðền Thờ và con cái những người nô lệ của vua Sa-lô-môn là ba trăm chín mươi hai.
59 Con cái những người trở về từ Ten Me-lác, Ten Khác-sa, Cơ-rúp, Át-đan, Im-me. Họ không thể dựa vào gia tộc và dòng giống của họ để cho biết có thuộc về Ít-ra-en hay không: 60 con cái Ðơ-la-gia, con cái Tô-vi-gia, con cái Nơ-cô-đa: sáu trăm năm mươi hai. 61 Trong số con cái các tư tế, có: con cái ông Kho-va-gia, con cái ông Hắc-cốt, con cái ông Bác-di-lai là người đã lấy một trong các con gái ông Bác-di-lai, người Ga-la-át, nên đã mang tên ông ấy. 62 Những người này đã tìm kiếm tên của họ trong cuốn gia phả, nhưng không thấy, nên đã bị loại ra khỏi hàng tư tế, vì bị coi là ô uế. 63 Quan tổng đốc cấm họ không được ăn của thánh, cho đến khi có một tư tế đứng lên xem thẻ xăm u-rim và tum-mim.
64 Toàn thể cộng đồng là bốn mươi hai ngàn ba trăm sáu mươi người, 65 không kể tôi trai tớ gái của họ lên tới bảy ngàn ba trăm ba mươi bảy người. Họ cũng có hai trăm nam nữ ca viên. 66 Họ có bảy trăm ba mươi sáu con ngựa, hai trăm mười lăm con la, 67 bốn trăm ba mươi lăm con lạc đà và sáu ngàn bảy trăm hai mươi con lừa.
68 Khi về đến Nhà Ðức Chúa ở Giê-ru-sa-lem, một số người đứng đầu các gia tộc dâng cúng những lễ vật tự nguyện cho Nhà Thiên Chúa, để tái thiết Nhà đó ở chỗ cũ. 69 Theo khả năng, họ đã dâng vào quỹ dùng cho công trình đó sáu mươi mốt ngàn quan tiền, hai ngàn năm trăm ký bạc và một trăm bộ phẩm phục tư tế.
70 Các tư tế, các thầy Lê-vi và một phần dân chúng ở tại Giê-ru-sa-lem; còn các ca viên, những người giữ cửa, những người phục vụ Ðền Thờ thì ở trong các thành của họ; mọi người Ít-ra-en khác cũng ở trong các thành của họ.
CHIA SẺ
Thiên Chúa là Đấng toàn năng nhưng Ngài chọn để hoàn thành công việc của mình ngang qua con người. Mặc dù mong muốn của Chúa là tất cả mọi người đều đáp lại lời mời gọi của Ngài, nhưng thực tế là chỉ có một số sót lại. Trong tàn dư đó, Thiên Chúa cung cấp các nhóm người cần thiết để hoàn thành công việc của Ngài.
Những người lãnh đạo. Nhóm người đầu tiên cần có để hoàn thành công việc của Chúa là các nhà lãnh đạo. Họ không phải giống như Mosê và A-ha-ron trong lần đầu tiên trở về sau thời lưu đày. Thiên Chúa đã không cho họ những dấu hiệu và những điều kỳ diệu mà Ngài đã cho Mosê và A-ha-ron. Ngài không gặp họ từ một đám mây trên núi, Ngài không huấn luyện theo cách khác vì họ đã có Lời Thiên Chúa. Thiên Chúa chỉ chọn 11 người lãnh đạo trong số 42 ngàn người. Đóng góp của họ quan trọng để xây dựng lại đất nước.
Dân chúng.  Một người lãnh đạo  mà không có ai theo kết quả thực sự chỉ là đi dạo. Vì vậy, các nhà lãnh đạo phải có những người theo bằng không họ không phải là những nhà lãnh đạo thực sự. Vì vậy, nhóm người thứ hai cần có để hoàn thành công việc của Chúa là người giáo dân. Trong bối cảnh này, họ là những người được liệt kê từ câu thứ 2 đến câu 35. Ngài gọi mọi người từ những nền tảng khác nhau, và có những khả năng khác nhau.
Những người thừa tác viên. Đây là những người mà Chúa kêu gọi để làm công việc mục vụ của đền thờ. Họ được mời gọi ngay cả khi Đền thờ chưa được hoàn tất. Vua David đã tổ chức các tư tế thành 24 nhóm gia đình. Điều đáng buồn về các tư tế trong  đoạn văn này họ chỉ đại diện cho 4 trong số 24 nhóm. Nhóm Lê-vi bình thường gấp 10 lần nhóm tư tế, nhưng sau này chúng ta thấy Ét-ra chỉ có được 38 người lên đường với ông.
Những người còn lại: Một nhóm hỗ hợp thường không có gì để mọi người làm việc với. Nhưng với Thiên Chúa thì không phải như vậy. Đối với Ngài, tất cả đều quan trọng như nhau đối với công việc mà Ngài sẽ làm. Ngài gọi tất cả tham gia cộng tác vào sứ vụ của Ngài.
Khi nói đến ơn gọi là nói đến tất cả các sứ vụ mà Thiên Chúa dành riêng cho bạn thay vì hiểu theo nghĩa hẹp của ơn gọi linh mục hay tu sĩ (hôm nay là ngày thế giới xin ơn thánh hóa các linh mục).  Chúng ta phải biết ơn vì Chúa  gọi tất cả chúng ta. Ngài kêu gọi mọi người sử dụng những quà tặng, tài năng và khả năng của họ trong sứ mạng riêng mà Ngài dành cho họ. Cho dù bạn là ai, bạn đang làm trong lãnh vực nào, Thiên Chúa đều có chỗ cho bạn trong kế hoạch của Ngài. Bạn có sẵn sàng vâng phục Ngài khi Ngài ngỏ lời với bạn?

1 nhận xét:

  1. HH hôm nay, Chúa kể với con nhiều về con cháu của từng người. Con chợt nghĩ : con cái của Mình gồm có Hai người ha ha.
    Rồi đến đoạn Chúa kể phân chia mỗi người một sứ vụ: người làm tư tế, người làm thầy Lê vi, người làm ca viên, người phục vụ đền thờ ...
    Chúa xiền thiệt, phân việc đâu ra đấy.
    Rồi con lại Thấy Chúa chia việc cho con, trùng kin thiệt.
    Chúa vừa chia cho con dạy giáo lý, rồi sáng nay con mở ra thấy Chúa dữ thần trong việc biết con muốn gì cần gì luôn. Đúng là Chúa ở trong bụng con thật. Con đang âu lo các em xứ con đọc sách Thánh trong Thánh lễ thiếu nhi chưa ưng í mấy. Vậy là Chúa chia cho con dạy cách lật sách Tân Ước, cách đọc sách. Thiệt tình, con càng nhận ra Chúa Yêu con nhiều hơn con nghĩ.
    Tạ ơn Chúa!
    Nữa, chắc Chúa biết con chạnh lòng trước chị ngày ngày đi lễ ngồi ghế sau con. Giờ con đọc trúng vì sao chị ý như thế. " Cấm họ ko được ăn của Thánh".
    Chúa ơi! Hy vọng Chúa Yêu chị ấy nhiều hơn các người phụ nữ.
    Tuy chồng chắp vợ nối, nhưng con hiểu hoàn cảnh anh chị ấy rất khác. Biết khi nào ac ấy mới được rước lễ như bao người.
    Dẫu biết rằng luật là luật nhưng xin Chúa yêu thương hoàn cảnh ac ấy và xóa đi những cái nhìn của người phàm làm anh chị ấy e thẹn. Con ko xin Chúa phá luật nhưng xin Chúa ban cho bao người đều nhìn ac ấy một cái nhìn thương cảm, yêu thương nâng đỡ, một cái nhìn xót thương trong tình Chúa. Và con Xin cho ac ấy, dẫu miệng người đời có thế nào thì ac ấy mãi một mực yêu Chúa, mãi trung thành đến với Thánh lễ hàng ngày như hiện nay.
    Xin Chúa nhậm lời con. Amen

    Trả lờiXóa

Kính mời quý ACE chia sẻ cảm nhận hoặc nêu thắc mắc ở đây. Xin cám ơn.
HHTLC