Chủ Nhật, 31 tháng 8, 2014

CHƯƠNG 6 - ĐA-NI-EN

1 Sau đó, ông Ða-ri-ô, người Mê-đi, lên ngôi vua năm sáu mươi hai tuổi. 
6. Ông Ða-Ni-En Trong Hầm Sư Tử 
Lòng ganh tị của các thống đốc
2 Vua Ða-ri-ô quyết định đặt trên vương quốc của ông một trăm hai mươi thống đốc, để họ cai trị toàn vương quốc 3 dưới quyền ba tể tướng trong đó có ông Ða-ni-en. Họ phải phúc trình mọi việc cho ba vị này, để nhà vua khỏi bị thiệt hại. 4 Ông Ða-ni-en này vượt hẳn các tể tướng và thống đốc, nhờ có một thần khí siêu phàm, nên vua có ý định đặt ông đứng đầu cả vương quốc. 5 Do đó, các tể tướng và thống đốc cố tìm cách bắt lỗi ông Ða-ni-en về việc triều chính. Nhưng họ đã không thể tìm được một cớ hay một thiếu sót nào để bắt lỗi, vì ông Ða-ni-en vốn là người trung tín; họ đã không tìm được điều gì sơ suất hay thiếu sót nơi ông. 6 Vì thế, những người ấy mới nói với nhau: "Chúng ta sẽ chẳng tìm được một cớ nào để bắt lỗi tên Ða-ni-en này đâu, trừ phi tìm lý do tôn giáo để hại y." 7 Bấy giờ các tể tướng và thống đốc ấy kéo nhau đến gặp vua và tâu rằng: "Ðức vua Ða-ri-ô, vạn vạn tuế! 8 Tất cả các vị tể tướng của vương quốc, các thủ lãnh, thống đốc, cận thần và tổng trấn đều nhất trí thảo ra sắc chỉ và xin đức vua phê chuẩn lệnh cấm sau đây: Trong ba mươi ngày sắp tới, bất cứ ai cầu xin thần nào hay người nào ngoài đức vua thì sẽ bị quăng vào hầm sư tử. 9 Bấy giờ, tâu đức vua, xin ngài hạ lệnh cấm và châu phê văn kiện, để chiếu theo luật không thể huỷ bỏ của dân Mê-đi và Ba-tư, lệnh cấm này trở nên bất di bất dịch." 10 Do đó, vua Ða-ri-ô đã châu phê văn kiện và lệnh cấm. 
Ông Ða-ni-en cầu nguyện
11 Khi biết là văn kiện đã được châu phê, ông Ða-ni-en về nhà. Cửa sổ phòng trên nhà ông quay về hướng Giê-ru-sa-lem. Mỗi ngày ba lần, ông quỳ gối, cầu nguyện và ngợi khen Thiên Chúa của ông, y như ông đã làm từ trước đến nay. 12 Bấy giờ những người ấy đổ xô lại và bắt gặp ông Ða-ni-en đang cầu nguyện và thống thiết nài van Thiên Chúa của ông. 13 Rồi họ tới yết kiến vua và nhắc đến lệnh cấm của vua: "Ðức vua đã chẳng châu phê lệnh cấm đó sao? Theo lệnh cấm này, trong ba mươi ngày sắp tới, bất cứ ai cầu xin thần nào hay người nào ngoài đức vua thì sẽ bị quăng vào hầm sư tử." Vua đáp lại rằng: "Ðúng vậy, chiếu theo luật không thể huỷ bỏ của dân Mê-đi và Ba-tư thì đúng như vậy." 14 Bấy giờ họ thưa với vua rằng: "Tâu đức vua, trong đám dân Giu-đa lưu đày, có tên Ða-ni-en không đếm xỉa gì tới đức vua cũng như tới giới lệnh đức vua đã châu phê. Ngày nào y cũng cầu nguyện đến ba lần." 15 Nghe lời ấy, vua rất đau lòng và để tâm tìm cách cứu ông Ða-ni-en. Vua cố sức giải cứu ông Ða-ni-en mãi cho đến lúc mặt trời lặn. 16 Bấy giờ những người kia lại kéo nhau đến gặp vua và tâu rằng: "Tâu đức vua, xin đức vua biết cho rằng theo luật của dân Mê-đi và dân Ba-tư, thì mọi giới lệnh và sắc chỉ nhà vua đã ban đều bất di bất dịch." 
Ông Ða-ni-en bị quăng vào hầm sư tử
17 Bấy giờ vua đành hạ lệnh, và người ta đưa ông Ða-ni-en đi quăng vào hầm sư tử. Vua lên tiếng nói với ông Ða-ni-en: "Vị thần mà ngươi bền lòng phụng sự, chính vị ấy sẽ cứu ngươi!" 18 Người ta đem một phiến đá tới đặt trên miệng hầm. Vua lấy ấn của mình và ấn của các đại thần niêm phiến đá lại để không còn thay đổi gì được nữa về vụ ông Ða-ni-en. 19 Rồi vua về cung, suốt đêm không ăn không uống, cũng chẳng cho các cung phi vào hầu. Vua không tài nào chợp mắt được. 20 Sáng sớm tinh sương, vua đã trỗi dậy, vội vã đi ra hầm sư tử. 21 Vừa tới gần, vua cất giọng đau đớn gọi vọng xuống ông Ða-ni-en. Vua lên tiếng nói với ông rằng: "Hỡi Ða-ni-en, người tôi tớ của Thần hằng sống, vị Thần mà ngươi bền lòng phụng sự, có cứu được ngươi thoát hàm sư tử không?" 22 Bấy giờ ông Ða-ni-en đáp lại: "Hoàng thượng, vạn vạn tuế! 23 Thiên Chúa của thần đã sai thiên sứ đến khoá hàm sư tử khiến chúng không hại được thần, bởi vì trước mặt Người, thần đã được nhìn nhận là vô tội, và, tâu đức vua, ngay trước nhan ngài, thần cũng chẳng làm điều gì ác." 24 Lúc ấy, vua rất vui mừng, truyền kéo ông Ða-ni-en lên khỏi hầm. Và ông được kéo lên, không một vết thương trên mình, bởi vì ông đã tin cậy vào Thiên Chúa của ông. 25 Vua liền truyền điệu những người kia đến, họ là những kẻ đã vu khống cho ông Ða-ni-en; rồi vua ra lệnh quăng họ cùng với vợ con vào hầm sư tử. Những người này chưa đụng tới nền hầm, thì sư tử đã vồ lấy chúng mà nghiền nát xương. 
Lời tuyên xưng đức tin của vua Ða-ri-ô
26 Bấy giờ vua Ða-ri-ô viết cho tất cả những người thuộc các dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ trên khắp cõi đất: "Chúc các ngươi vạn sự bình an! 27 Ðây là lệnh ta truyền: trên toàn lãnh thổ vương quốc ta, mọi người phải run rẩy kính sợ trước mặt vị Thần của Ða-ni-en:
bởi vì Người là vị Thần hằng sống và tồn tại muôn đời;
vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong,
quyền thống trị của Người vô cùng vô tận.
28 Người giải thoát, giữ gìn,
Người làm những dấu lạ điềm thiêng trên trời cùng dưới đất.
Người đã giải cứu Ða-ni-en khỏi móng vuốt sư tử."
29 Còn ông Ða-ni-en thì thành công rực rỡ dưới triều vua Ða-ri-ô cũng như dưới triều vua Ky-rô, người Ba-tư. 
CHIA SẺ

Đa-ni-en đã đối diện với ba cơn thử thách, và Đức Chúa đã ban cho ông chiến thắng.

Khủng hoảng về công việc (c.1-5). Khi những viên quan khác đã nghe rằng Đa-ni-en có thể được thăng chức, họ đã ghen tỵ và muốn tống khứ ông đi. Trong thế giới của những người không tin, họ không muốn trao trách nhiệm cho một người có niềm tin, cho dù người đó tài năng và làm việc hiệu quả. Ánh sáng luôn luôn cho thấy những gì đang xảy ra trong bóng tối (Ep 5:8-13).
Khủng hoảng về cầu nguyện (c.6-17). Những viên quan đã dối trá khi họ sử dụng từ tất cả, vì điều đó làm cho nhà vua tưởng rằng Đa-ni-en đã đồng ý với họ. Nhưng không quy luật hay sự đe dọa nào có thể làm cho Đa-ni-en bỏ giờ cầu nguyện. Liệu cầu nguyện đối với bạn là vấn đề sống chết chăng? Đối với Đa-ni-en đúng là như vậy !
Khủng hoảng niềm tin (c.18-28). Thiên Chúa đã để cho Đa-ni-en thoát khỏi cái hang; Ngài bảo vệ ông khi ông ở trong hang. Tại sao ? Bởi vì Đa-ni-en có niềm tin vào Ngài (c.23; Dt 11:33) và trung thành với Đức Chúa (Tv 18:17-24). Có lẽ Đa-ni-en đã suy niệm Tv 37:1-15 và Cn 11:8.
Khi những con sư tử sắp sửa tấn công bạn, hãy tín thác nơi Thiên Chúa và công bố những lời hứa của Ngài. Nhưng hầu hết chúng ta không tín thác vào Thiên Chúa như Đa-ni-en đã làm. Chúng ta thường kinh hãi bởi những gì chúng ta thấy nơi chính mình. Niềm tin của chúng ta ở nơi Thiên Chúa quá yếu. Vì thế, làm thế nào để bạn có được niềm tin như Đa-ni-en? Làm thế nào để bạn đối mặt với đàn sư tử đói mồi và vẫn tín thác nơi Thiên Chúa ?

Thứ Bảy, 30 tháng 8, 2014

CHƯƠNG 5 - ĐA-NI-EN

5. Bữa Tiệc Của Vua Bên-Sát-Xa 
1 Vua Bên-sát-xa mở tiệc lớn khoản đãi một ngàn đại thần. Trước mặt những người này, vua uống rượu. 2 Khi đã thấm hơi men, vua truyền mang ly mang chén bằng vàng bằng bạc mà vua cha là Na-bu-cô-đô-nô-xo đã lấy ở đền thờ Giê-ru-sa-lem. Vua Bên-sát-xa định dùng những ly chén này để uống rượu cùng với các đại thần, cung phi và cung nữ. 3 Bấy giờ người ta mang ly chén bằng vàng đã lấy từ cung thánh Ðền Thờ Thiên Chúa ở Giê-ru-sa-lem; vua và các đại thần, cung phi và cung nữ đều dùng mà uống. 4 Họ vừa uống rượu vừa ca ngợi các thần bằng vàng, bạc, đồng, sắt, gỗ và đá. 5 Ngay lúc ấy, những ngón tay người xuất hiện, viết lên vách tường quét vôi của hoàng cung ở phía sau trụ đèn. Vua nhìn thấy phần bàn tay đang viết. 6 Bấy giờ mặt vua biến sắc, tâm trí bàng hoàng, ruột gan đòi đoạn, gối run cầm cập. 7 Vua lên tiếng ra lệnh cho triệu các pháp sư, các nhà chiêm tinh và thầy bói. Rồi vua ngỏ lời với các nhà thông thái Ba-by-lon rằng: "Phàm ai đọc nổi hàng chữ ấy và giải thích được cho ta nghe, ta sẽ cho mặc cẩm bào đỏ thẫm, đeo vòng vàng vào cổ; người ấy sẽ là nhân vật thứ ba trong vương quốc." 8 Lúc đó, tất cả các nhà thông thái của vua tiến vào, nhưng họ chẳng đọc được hàng chữ ấy, cũng không giải thích nổi cho vua hiểu.9 Bấy giờ vua Bên-sát-xa hết sức bàng hoàng, mặt vua biến sắc. Các đại thần cũng hốt hoảng. 10 Nghe tiếng nói của vua và các đại thần, hoàng thái hậu đi vào phòng tiệc. Bà lên tiếng nói: "Thánh thượng vạn tuế! Xin thánh thượng đừng để cho tâm trí ra bàng hoàng, đừng để dung nhan ngài phải biến sắc! 11 Trong vương quốc của ngài, có một nhân vật mang nơi mình thần khí của các bậc thần thánh. Dưới thời phụ vương của ngài, người ta gặp thấy nơi nhân vật ấy sự sáng suốt, thông hiểu và khôn ngoan sánh được với sự khôn ngoan của các thần. Phụ vương của ngài là Na-bu-cô-đô-nô-xo đã đặt ông ấy đứng đầu các thầy phù thuỷ, pháp sư, chiêm tinh và thầy bói. 12 Bởi vì nơi ông ấy, tức là ông Ða-ni-en mà phụ vương đã đặt tên là Bên-tơ-sát-xa, người ta gặp thấy thần khí siêu phàm, tri thức, hiểu biết, tài giải mộng, tài cắt nghĩa điều bí nhiệm, tài tháo gỡ khó khăn, nên xin cho gọi ông ấy đến; ông ấy sẽ giải thích được."
13 Bấy giờ ông Ða-ni-en được dẫn vào chầu vua. Vua ngỏ lời với ông rằng: "Ngươi có phải là Ða-ni-en, một người trong nhóm Giu-đa đi lưu đày mà phụ vương ta đã đưa từ Giu-đa về không? 14 Ta đã nghe đồn rằng thần khí của các bậc thần minh ở nơi ngươi, nên ngươi mới có sự sáng suốt, thông hiểu và khôn ngoan xuất chúng. 15 Người ta đã dẫn các nhà thông thái và pháp sư đến để đọc và giải thích hàng chữ kia cho ta; nhưng họ đều không giải thích được ý nghĩa. 16 Còn về ngươi, ta nghe nói rằng ngươi có tài giải thích và tháo gỡ khó khăn. Vậy, nếu ngươi đọc và giải thích được hàng chữ đó cho ta, thì ngươi sẽ được mặc cẩm bào đỏ thẫm, đeo vòng vàng vào cổ, và sẽ là nhân vật thứ ba trong vương quốc."
17 Bấy giờ ông Ða-ni-en lên tiếng nói trước mặt vua: "Tâu đức vua, lộc vua ban, xin giữ lại cho ngài; quà vua tặng, xin dành cho người khác. Nhưng hàng chữ kia, thần xin đọc và giải thích hầu đức vua. 18 Thiên Chúa là Ðấng Tối Cao, đã ban cho Na-bu-cô-đô-nô-xo, phụ vương ngài, vương quốc với chức cao quyền trọng, vinh dự và oai phong. 19 Chính vì chức cao quyền trọng Thiên Chúa ban cho phụ vương mà mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều run rẩy kính sợ trước mặt phụ vương. Người bắt ai phải chết hay cho ai được sống là tuỳ ý, người nâng ai lên hay hạ ai xuống cũng tuỳ ý. 20 Nhưng khi trở nên tự cao tự đại và sinh lòng kiêu căng quá mức, người đã bị truất ngôi và mất hết vinh dự. 21 Người đã bị đuổi, không được chung sống với người ta, bị mất trí, trở nên giống thú vật, phải chung sống với lừa hoang và ăn cỏ như bò, mình mẩy ướt đẫm sương trời, cho tới khi người nhận ra Thiên Chúa, Ðấng Tối Cao, là Ðấng cai trị vương quốc loài người, và Thiên Chúa ban quyền cai trị này cho ai là tuỳ ý. 22 Còn ngài, tâu đức vua Bên-sát-xa, ngài là con của phụ vương, dầu đã biết tất cả những điều trên, ngài vẫn không chịu hạ mình xuống. 23 Trái lại ngài đã tự cao tự đại, đã chống lại Chúa Tể trời cao: ly chén trong Ðền Thờ của Chúa, người ta đã mang đến trước mặt ngài; ngài đã dùng các ly chén ấy mà uống cùng với các đại thần, cung phi và cung nữ. Ngài đã ngợi khen các thần bằng bạc, vàng, đồng, sắt, gỗ và đá là những vật không thấy, không nghe, không biết. Còn Thiên Chúa là Ðấng nắm trong tay sinh khí của ngài và điều khiển mọi đường đi nước bước của ngài, ngài lại chẳng tôn vinh! 24 Vì thế, Thiên Chúa đã cho phần bàn tay ấy đến viết hàng chữ kia. 25 Ðây là những chữ đã được viết ra: Mơ-Nê, Mơ-Nê, Tơ-Kên, Pác-Xin; 26 và đây là lời giải thích: Mơ-Nê - có nghĩa là đếm -: Thiên Chúa đã đếm và chấm dứt những ngày của triều đại ngài; 27 Tơ-Kên - có nghĩa là cân -: ngài đã bị đặt trên bàn cân và thấy là không đủ; 28 Pơ-Rết - có nghĩa là phân chia -: vương quốc của ngài đã bị phân chia và trao cho các dân Mê-đi và Ba-tư."
29 Bấy giờ vua Bên-sát-xa truyền mặc cẩm bào đỏ thẫm cho ông Ða-ni-en, đeo vòng vàng vào cổ ông và tuyên bố rằng, trong vương quốc, ông là nhân vật thứ ba.
30 Ngay đêm ấy, Bên-sát-xa, vua dân Can-đê, bị giết chết. 
CHIA SẺ

Những biến cố trong chương này xảy ra trong nhiều năm sau khi những gì được ghi lại trong chương 4. Bên-sát-xa là nhiếp chính cho cha của mình là Na-bu-cô-đô-nô-so, điều đó giải thích tại sao Đa-ni-en được kể là nhân vật thứ ba trong vương quốc (c.29).
Nhà vua có thể mới, nhưng tội thì cũ: tự kiêu và tự tin. Vào chính giờ phút đó, Đa-ri-us đã tiêu diệt thành; nhưng Bên-sát-xa và các đại thần của ông đã quá tự tin đến mức ông đã nhạo báng Thiên Chúa và ca ngợi các ngẫu tượng của Ba-by-lon.
Thiên Chúa đã ban cho Na-bu-cô-đô-nô-so một năm để hoán cải, nhưng Ngài đã xét xử Bên-sát-xa ngay chính đêm đó. Nhà vua đã không học từ những người đã đi trước, và Đa-ni-en đã nói với ông như thế (c.17-23). Nhưng điều đó đã quá trễ !
Những tội nhân quá tự tin nên ý thức rằng đừng nên thử thách Thiên Chúa (Lc 11:16-21), và cũng thế một thế giới kiêu ngạo đến mức họ nói rằng, “bình an và an toàn!” (1Thes 5:1-11). Vào thời của Nô-ê và Áp-bra-ham, việc phán xét đã đến khi con người ít để ý đến nhất (Lc 17:26-32). Điều đó sẽ lại xảy ra như vậy.
Bài học từ cuộc sống và triều đại của Bên-sát-xa rất rõ ràng. Nếu bạn theo cách thức của xác thịt mà bất chấp Thiên Chúa, bạn sẽ phí phạm cuộc sống của mình. Nếu bạn lưu ý đến những cảnh báo của Ngài và tuân theo ý Ngài, như Đa-ni-en đã sống, Ngài sẽ chúc lành và chăm sóc cho bạn. Bạn học được điều gì từ chính cuộc sống của hai nhân vật chính trong chương này ?

Thứ Sáu, 29 tháng 8, 2014

CHƯƠNG 4 - ĐA-NI-EN

Vua Na-bu-cô-đô-nô-xo kể lại giấc chiêm bao
1 Ta là Na-bu-cô-đô-nô-xo, đang lúc hưởng bình an dưới mái nhà, và thịnh vượng trong cung điện, 2 thì ta đã có một giấc chiêm bao khiến ta phải kinh hoàng; những nỗi lo âu trên giường nằm và những thị kiến trong đầu làm ta khiếp sợ. 3 Và ta đã truyền lệnh phải đưa tất cả các nhà thông thái của Ba-by-lon đến trước mặt ta, để họ cho ta biết ý nghĩa của giấc chiêm bao. 4 Bấy giờ tất cả các thầy phù thuỷ, pháp sư, những nhà chiêm tinh và các thầy bói vào chầu. Ta đã kể cho họ nghe giấc chiêm bao của ta, nhưng họ không thể cho ta biết được ý nghĩa của giấc chiêm bao ấy. 5 Sau hết có Ða-ni-en vào chầu, người này mang tên vị thần của ta là Bên-tơ-sát-xa, và cũng là người có thần khí của Thiên Chúa ở nơi mình. Ta đã kể cho người ấy giấc chiêm bao của ta:
6 "Hỡi Bên-tơ-sát-xa là người đứng đầu các thầy phù thuỷ, ta biết rằng có thần khí của các bậc thần thánh ở nơi ngươi, và không có điều bí ẩn nào làm cho ngươi phải lúng túng. Ðây là những điều ta đã thấy trong chiêm bao. Hãy giải nghĩa cho ta.
7 "Nằm trên giường, ta đã thấy trong đầu ta như thế này:
"Ta đang nhìn,
bỗng thấy một cây ở giữa mặt đất, một cây cao lắm.
8 Cây ấy lớn lên và vững mạnh, ngọn cây chạm tới trời,
và ở tận cùng mặt đất cũng thấy được.
9 Lá đẹp, trái nhiều, nó cung cấp thức ăn cho mọi loài.
Thú vật ngoài đồng tìm bóng mát dưới gốc,
chim trời trú ngụ trên cành.
Mọi loài có xương thịt đều lấy nó làm thức ăn.
10 Nằm trên giường, ta đang nhìn xem thị kiến trong đầu,
bỗng có một vị Canh thức, một vị thánh từ trời xuống.
11 Vị ấy kêu lớn tiếng và nói thế này:
"Ðốn cây xuống, chặt cành đi, giũ cho trụi lá, quăng trái nó đi;
thú vật hãy rời xa bóng nó, và chim trời hãy lìa bỏ cành nó.
12 Nhưng gốc rễ nó, hãy để lại dưới đất,
lấy đai sắt, đai đồng mà xiềng giữa cỏ xanh đồng nội.
Nó phải chịu dầm sương và ăn cỏ chung với thú vật ngoài đồng.
13 Hãy lấy đi quả tim con người của nó,
và thay vào đó một quả tim thú vật,
cứ để nó như vậy suốt bảy thời.
14 Án phạt này là do lệnh của các vị Canh thức,
quyết định này là do lời của các bậc thánh nhân,
cốt cho mọi sinh linh biết rằng:
Ðấng Tối Cao cai trị vương quốc loài người
và trao vương quốc ấy cho kẻ nào Người muốn.
Người đặt kẻ hèn mọn nhất lên cầm đầu.
15 Ta, Na-bu-cô-đô-nô-xo, ta đã thấy giấc chiêm bao ấy. Còn ngươi, hỡi Bên-tơ-sát-xa, hãy công bố lời giải mộng, vì tất cả các nhà thông thái trong nước không giải được cho ta. Nhưng ngươi giải được, vì thần khí của các bậc thần linh ở nơi ngươi!" 
Ông Ða-ni-en giải mộng
16 Bấy giờ ông Ða-ni-en, cũng gọi là Bên-tơ-sát-xa, lặng người đi một lúc, tâm trí ông bàng hoàng. Nhà vua lên tiếng nói: "Hỡi Bên-tơ-sát-xa, đừng để giấc chiêm bao và lời giải mộng làm ngươi bàng hoàng." Bên-tơ-sát-xa đáp: "Tâu chúa thượng, mong cho giấc chiêm bao ấy là của những kẻ ghét ngài, và lời giải mộng dành cho kẻ thù của ngài. 17 Cây ngài đã thấy lớn lên và vững mạnh, ngọn chạm tới trời, và cả mặt đất đều thấy được, 18 lá đẹp, trái nhiều, cung cấp thức ăn cho mọi loài, thú đồng núp dưới bóng, và chim trời đậu trên cành, 19 tâu đức vua, cây ấy chính là ngài. Ngài đã lớn lên và vững mạnh: sự cao cả của ngài chạm tới trời và quyền thống trị của ngài trải rộng đến tận cùng cõi đất.
20 "Sau đó ngài đã thấy một vị Canh thức, cũng là một vị thánh từ trời xuống, nói rằng: "Ðốn cây xuống, huỷ nó đi, nhưng gốc rễ nó thì để lại dưới đất, lấy đai sắt đai đồng mà xiềng giữa cỏ xanh đồng nội; nó phải chịu dầm sương và ăn cỏ chung với thú vật ngoài đồng. Nó phải chịu như vậy bảy thời." 21 Tâu đức vua, đây là lời giải mộng và cũng là lệnh Ðấng Tối Cao ban xuống cho ngài, chúa công của thần.
22 "Ngài sẽ bị đuổi, không được chung sống với người ta,
nhưng phải sống chung với thú vật ngoài đồng,
phải ăn cỏ như bò, và dầm sương suốt bảy năm ròng rã,
cho tới lúc ngài chịu nhận ra
rằng Ðấng Tối Cao cai trị vương quốc loài người,
và Người trao cho kẻ nào Người muốn.
23 "Còn lệnh phải để gốc rễ lại có nghĩa như sau: Vương quốc của ngài sẽ vẫn là của ngài, sau khi ngài chịu công nhận quyền cai trị của Trời. 24 Vì thế, tâu đức vua, xin vui lòng nghe theo lời thần đề nghị mà đái tội lập công, bằng cách làm việc nghĩa, là tỏ lòng từ bi đối với người nghèo, may ra thời thịnh vượng của ngài sẽ được kéo dài thêm chăng." 
Giấc mơ thành hiện thực
25 Tất cả những điều trên đây đã xảy ra cho vua Na-bu-cô-đô-nô-xo đúng như vậy. 26 Mười hai tháng trôi qua, nhân lúc đi dạo trên sân thượng hoàng cung ở Ba-by-lon, 27 nhà vua lên tiếng nói: "Ðây chẳng phải là Ba-by-lon vĩ đại, thành ta đã dùng quyền lực lớn lao mà xây dựng làm hoàng cung, để ta được vinh quang rạng rỡ đó sao?" 28 Vua còn đang nói thì có tiếng từ trời vọng xuống:
"Nghe đây, hỡi vua Na-bu-cô-đô-nô-xo:
Vương quyền ngươi nắm giữ đã vuột khỏi tay ngươi,
29 ngươi sẽ bị đuổi, không được chung sống với người ta,
nhưng phải sống chung với thú vật ngoài đồng,
phải ăn cỏ như bò.
Ngươi phải chịu như thế suốt bảy thời ròng rã,
cho tới lúc ngươi chịu nhận ra
rằng Ðấng Tối Cao cai trị vương quốc loài người,
và Người trao cho kẻ nào Người muốn."
30 Ngay lúc đó, những lời trên đây liên quan đến vua Na-bu-cô-đô-nô-xo đã nên ứng nghiệm. Ông bị đuổi, không được chung sống với người ta, phải ăn cỏ như bò, mình mẩy ướt đẫm sương trời, và rồi tóc tai dài dần ra như lông đại bàng, móng tay móng chân như thể móng chim.
31 "Khi mãn hạn, ta là Na-bu-cô-đô-nô-xo, ta ngước mắt lên trời; cùng lúc, ta tỉnh trí lại và chúc tụng Ðấng Tối Cao. Ta ca ngợi, tôn vinh Ðấng Hằng Sống:
Người nắm quyền thống trị muôn đời,
vương quốc của Người tồn tại thiên thu.
32 Trước nhan Người, dân cư trên mặt đất đều bị kể như không.
Theo ý muốn của Người,
Người điều khiển cả đạo binh trên trời, lẫn cư dân dưới đất.
Chẳng có ai cản được tay Người,
và dám hỏi rằng: Ngài làm gì thế?"
33 Cùng lúc ấy, ta tỉnh trí lại. Ta tìm lại được vinh quang huy hoàng thuở trước, nhờ đó, vương quốc của ta cũng sẽ vẻ vang rạng rỡ. Các cố vấn và đại thần đến thăm viếng ta. Ta phục hồi được quyền bính trên vương quốc, nhờ vậy, uy thế vốn lớn lao của ta càng gia tăng gấp bội. 34 Giờ đây, ta, Na-bu-cô-đô-nô-xo,
ta ca ngợi, tán dương và tôn vinh Vua Trời,
vì mọi việc Người làm đều chân thật,
đường lối của Người vốn công minh.
Người có quyền hạ bệ kẻ quen thói kiêu căng hống hách." 
CHIA SẺ

Giấc mơ thứ hai của Na-bu-cô-dô-nô-so hoàn tất ba điều: nó cảnh báo nhà vua rằng sự kiêu ngạo của ông sẽ dẫn đến việc bị xét xử (c.37; Cn 16:18); nó diễn tả một cách không hoàn chỉnh về những đạo sĩ của ông (c.6-7); và nó cho Đa-ni-en một cơ hội khác để tôn vinh Thiên Chúa trên trời.

Thật không dễ dàng cho Đa-ni-en để truyền đạt đến nhà vua về những sứ điệp của giấc mơ. Na-bu-cô-đô-nô-so là một người nóng tính, và ông có thể ra lệnh sử tử Đa-ni-en. Na-than rơi vào một tình huống tương tự khi ông phải đối diện với vua Đa-vít về những tội lỗi của ông (2 Sm 12). Nhưng khi những cách của bạn hài lòng Thiên Chúa, bạn không phải lo lắng về kẻ thù của mình (Cn 16:7).

Thiên Chúa ban cho nhà vua cơ hội một năm để chuẩn bị (c.29), nhưng ông tiếp tục trong tội của mình. Thế rồi Thiên Chúa làm cho ông phải khiêm nhường. Nhà vua đã học được bài học, và khi ông đã được phục hồi, ông đã trao lại vinh quang cho Thiên Chúa.

Cho dù bạn được đảm nhận vị trí nào, Thiên Chúa đã ban cho bạn điều đó, và Ngài là Đấng toàn năng. Khi một người cố gắng để chiếm lấy vị trí của Thiên Chúa, người đó trở nên giống như một dã thú. Thiên Chúa vẫn chống lại sự tự hào nhưng ban ơn cho những  người khiêm hạ (Cn 3:34).

Chúng ta không phải là vua hay nữ hoàng của một đế chế nào, nhưng chúng ta cũng có thể phạm tội kiêu ngạo như Na-bu-cô-đô-nô-so vậy. Chúng ta có thể tự hào về những gì mình đã đạt được, về tài năng của mình, về vị trí trong xã hội. Nhưng tâm điểm của lòng kiêu ngạo là sự so sánh và nhìn thấy tôi tốt hơn những người khác như thế nào, và nghĩ rằng chúng ta không cần đến Thiên Chúa. Bạn có những kinh nghiệm nào về lòng kiêu ngạo đã đưa đến những thất bại trong chính đời sống của mình ?

Thứ Năm, 28 tháng 8, 2014

CHƯƠNG 3 - ĐA-NI-EN

2. Thờ Lạy Tượng Vàng 
Vua Na-bu-cô-đô-nô-xo dựng tượng vàng
1 Vua Na-bu-cô-đô-nô-xo làm một pho tượng bằng vàng cao sáu mươi thước, ngang sáu thước, dựng trong cánh đồng Ðu-ra thuộc tỉnh Ba-by-lon. 2 Rồi vua Na-bu-cô-đô-nô-xo sai người triệu tập các thống đốc, thủ lãnh, tổng trấn, các cố vấn, các quan coi ngân khố, các luật sĩ, thẩm phán và tất cả các quan chức hàng tỉnh đến khánh thành pho tượng vua Na-bu-cô-đô-nô-xo đã dựng. 3 Bấy giờ các thống đốc, thủ lãnh, tổng trấn, các cố vấn, các quan coi ngân khố, các luật sĩ, thẩm phán và tất cả các quan chức hàng tỉnh tập họp để khánh thành pho tượng vua Na-bu-cô-đô-nô-xo đã dựng, và họ đứng trước pho tượng vua Na-bu-cô-đô-nô-xo đã dựng. 4 Người đọc lệnh hô to: "Lệnh cho các ngươi, hỡi mọi người thuộc mọi dân tộc, giống nòi và ngôn ngữ: 5 Khi nghe tiếng tù và, tiếng sáo, tiếng đàn giây, đàn sắt, đàn cầm, tiếng kèn và đủ thứ nhạc cụ, các ngươi phải sấp mình thờ lạy pho tượng vàng vua Na-bu-cô-đô-nô-xo đã dựng. 6 Kẻ nào không sấp mình thờ lạy thì tức khắc sẽ bị ném vào đống lửa đang cháy phừng phực." 7 Bởi vậy, khi các dân tộc vừa nghe tiếng tù và, tiếng sáo, tiếng đàn giây, đàn sắt, đàn cầm, tiếng kèn và đủ thứ nhạc cụ, thì mọi người thuộc mọi dân tộc, giống nòi và ngôn ngữ đều sấp mình thờ lạy pho tượng vàng vua Na-bu-cô-đô-nô-xo đã dựng. 
Người Do-thái bị tố cáo và kết án
8 Bấy giờ có những người Can-đê đến tố cáo người Do-thái. 9 Họ tâu vua Na-bu-cô-đô-nô-xo: "Ðức vua vạn tuế! 10 Chính đức vua đã truyền rằng khi nghe tiếng tù và, tiếng sáo, tiếng đàn giây, đàn sắt, đàn cầm, tiếng kèn và đủ thứ nhạc cụ, mọi người phải sấp mình thờ lạy pho tượng vàng, 11 và kẻ nào không sấp mình thờ lạy sẽ bị ném vào đống lửa đang cháy phừng phực. 12 Vậy mà có mấy người Do-thái đức vua đã đặt lên trông coi tỉnh Ba-by-lon là Sát-rác, Mê-sác và A-vết Nơ-gô, tâu đức vua, mấy người này đã không để tâm đến ngài, chúng không phụng sự các thần của ngài, cũng không thờ lạy pho tượng vàng ngài đã dựng." 13 Bấy giờ vua Na-bu-cô-đô-nô-xo thịnh nộ truyền điệu Sát-rác, Mê-sác và A-vết Nơ-gô tới. Họ liền điệu những người này ra trước mặt vua. 14 Vua Na-bu-cô-đô-nô-xo cất tiếng nói với họ: "Này Sát-rác, Mê-sác và A-vết Nơ-gô, các ngươi không phụng sự các thần của ta và không thờ lạy pho tượng vàng ta đã dựng nên, có đúng như vậy không? 15 Bây giờ khi nghe tiếng tù và, tiếng sáo, tiếng đàn giây, đàn sắt, đàn cầm, tiếng kèn và đủ thứ nhạc cụ, các ngươi có sẵn sàng sấp mình thờ lạy pho tượng ta đã làm không? Nếu các ngươi không thờ lạy thì tức khắc các ngươi sẽ bị ném vào lò lửa đang cháy phừng phực, liệu có Thiên Chúa nào cứu được các ngươi khỏi tay ta chăng?" 16 Sát-rác, Mê-sác và A-vết Nơ-gô trả lời vua Na-bu-cô-đô-nô-xo rằng: "Chúng tôi không cần trả lời ngài về chuyện này. 17 Nếu Thiên Chúa chúng tôi thờ có sức cứu chúng tôi thì tâu đức vua, Người sẽ cứu chúng tôi khỏi lò lửa đang cháy phừng phực và khỏi tay ngài. 18 Còn nếu Người không cứu, thì xin đức vua biết cho rằng chúng tôi cũng không phụng sự các thần của ngài, và cũng không thờ lạy pho tượng vàng ngài đã dựng đâu!" 19 Bấy giờ vua Na-bu-cô-đô-nô-xo đổi sắt mặt, nổi cơn lôi đình với Sát-rác, Mê-sác và A-vết Nơ-gô. Vua lên tiếng truyền đốt lò lửa mạnh hơn mọi khi gấp bảy lần. 20 Rồi vua ra lệnh cho những người lực lưỡng nhất trong quân đội của vua trói Sát-rác, Mê-sác và A-vết Nơ-gô và quăng họ vào lò lửa đang cháy phừng phực. 21 Bấy giờ những người này bị trói lại, vẫn mặc nguyên cả áo ngoài, áo trong, mũ nón, giày dép và bị quăng vào lò lửa đang cháy phừng phực. 22 Lệnh vua thúc bách, lửa bốc quá cao nên ngọn lửa giết chết chính những người đem Sát-rác, Mê-sác và A-vết Nơ-gô lên miệng lò. 23 Còn ba người ấy là Sát-rác, Mê-sác và A-vết Nơ-gô rơi xuống lò lửa đang cháy phừng phực, mình vẫn bị trói. 
Thánh ca của A-da-ri-a trong lò lửa
24+ Rồi giữa ngọn lửa, họ vừa đi lại, vừa ngợi khen chúc tụng Thiên Chúa. 25+ A-da-ri-a đứng giữa đám lửa và cất tiếng cầu nguyện rằng:
26+ Lạy Chúa là Thiên Chúa tổ tiên chúng con,
xin chúc tụng và ca ngợi Chúa,
cùng tôn vinh Danh Thánh mãi muôn đời,
27+ vì trong hết mọi việc Chúa làm cho chúng con,
Chúa đã xử công minh chính trực.
Mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin,
đường lối Chúa quả là ngay thẳng,
mọi phán quyết của Ngài thật công minh.
28+ Ngài đã tuyên án theo công lý,
qua mọi điều Ngài bắt chúng con phải chịu,
chúng con cũng như Giê-ru-sa-lem
là thành thánh của cha ông chúng con.
Phải, Chúa đã phán quyết thật công minh
khi bắt chúng con phải chịu mọi điều ấy,
bởi vì chúng con đã phạm tội.
29+ Quả chúng con đã phạm tội,
đã làm điều gian ác khi dám lìa xa Ngài.
Trong mọi sự, chúng con đã nặng nề sai lỗi,
đã chẳng tuân theo mệnh lệnh Ngài.
30+ Chúng con đã bất tuân,
đã không hành động theo lệnh Ngài truyền,
nên không được hưởng nhờ ơn phúc.
31+ Phải, mọi sự Ngài đã bắt chúng con phải chịu,
mọi sự Ngài đã làm cho chúng con,
Ngài đã làm tất cả thật chính trực công minh.
32+ Ngài đã nộp chúng con vào tay bọn địch thù gian ác
là những kẻ ngoại giáo ác ôn.
Ngài đã nộp chúng con cho một vua bất chính
xấu xa nhất trên đời.
33+ Bây giờ, chúng con đâu còn dám mở miệng,
vì phải cùng chịu nhục nhằn xấu hổ
với những ai phục vụ và phụng thờ Ngài.
34+ Ôi! Vì danh thánh Chúa, xin đừng mãi mãi bỏ rơi chúng con,
đừng huỷ bỏ giao ước của Ngài!
35+ Vì tình nghĩa với bạn thân Ngài là Áp-ra-ham,
với tôi tớ Ngài là I-xa-ác, và kẻ Ngài thánh hoá là Ít-ra-en,
xin Ngài đừng rút lại
lòng thương xót đã dành cho chúng con.
36+ Ngài đã hứa làm cho dòng dõi họ
đông đảo như sao trên bầu trời,
như cát ngoài bãi biển.
37+ Thế mà hôm nay, lạy Chúa, vì tội lỗi chúng con,
chúng con đã thành dân nhỏ nhất,
đã nếm mùi ô nhục trên khắp hoàn cầu.
38+ Ngày nay chẳng còn vị thủ lãnh,
chẳng còn bậc ngôn sứ, chẳng còn người chỉ huy.
Lễ toàn thiêu, lễ hy sinh đã hết,
lễ tiến, lễ hương cũng chẳng còn,
chẳng còn nơi dâng của đầu mùa lên Chúa
để chúng con được Chúa xót thương.
39+ Nhưng xin nhận tâm hồn thống hối
và tinh thần khiêm nhượng của chúng con,
thay của lễ toàn thiêu chiên bò, và ngàn vạn cừu non béo tốt.
40+ Ước gì hy lễ chúng con thượng tiến Ngài hôm nay
cũng làm đẹp ý Ngài như vậy.
Ước gì chúng con theo Ngài mãi đến cùng,
vì những ai tin cậy vào Ngài, đâu có phải ê chề thất vọng.
41+ Và giờ đây, chúng con hết lòng đi theo Chúa,
kính sợ Ngài và tìm kiếm Thánh Nhan.
Xin đừng để chúng con phải thẹn thùng xấu hổ.
42+ Nhưng xin Ngài tỏ lòng nhân hậu
và lòng thương xót vô biên của Ngài
khi Ngài đối xử với chúng con.
43+ Xin làm những việc lạ lùng kỳ diệu
mà giải thoát chúng con
và tôn vinh danh Ngài, lạy Chúa.
44+ Ước gì những kẻ gây tai hoạ cho các tôi tớ Ngài
phải bẽ mặt hổ ngươi.
Ước gì chúng phải xấu hổ thẹn thùng,
mất hết mọi uy thế và quyền thống trị,
và ước gì sức mạnh của chúng bị đập tan.
45+ Ước gì chúng nhận biết Ngài chính là Chúa Tể,
là Thiên Chúa duy nhất quang vinh trên khắp cõi trần gian.
46+ Sau khi quăng ba thanh niên vào lò, các thuộc hạ của vua không ngừng đốt lò bằng dầu, nhựa, xơ gai và cành nho. 47+ Ngọn lửa bốc lên trên lò hai mươi bốn thước rưỡi, 48+ rồi lan ra, đốt cháy những người Can-đê đứng xung quanh lò. 49+ Nhưng thiên sứ của Ðức Chúa trước đây đã xuống trong lò cùng lúc với A-da-ri-a và các bạn, nay đẩy ngọn lửa ra khỏi lò. 50+ Thiên sứ làm cho trung tâm lò thành nơi mát mẻ như có một làn gió nhẹ rì rào, khiến cho lửa không hề đụng tới họ và chẳng gây phiền hà đau đớn gì cho họ cả. 
Thánh ca của ba thanh niên trong lò lửa
51+ Bấy giờ trong lò lửa, cả ba người đều đồng thanh ca ngợi, tôn vinh và chúc tụng Thiên Chúa rằng:
52+ "Lạy Chúa, chúc tụng Ngài
là Thiên Chúa tổ tiên chúng con,
xin dâng lời khen ngợi suy tôn muôn đời.
Chúc tụng danh thánh Ngài vinh hiển,
xin dâng lời khen ngợi suy tôn muôn đời.
53+ Chúc tụng Chúa trong thánh điện vinh quang,
xin dâng lời ca tụng tôn vinh muôn đời.
54+ Chúc tụng Chúa trên ngôi báu cửu trùng,
xin dâng lời ca tụng suy tôn muôn đời.
55+ Chúc tụng Chúa, Ðấng ngự trên các thần hộ giá
mà thấu nhìn vực thẳm,
xin dâng lời khen ngợi suy tôn muôn đời.
56+ Chúc tụng Chúa trên vòm trời tận chốn cao xanh,
xin dâng lời ca tụng tôn vinh muôn đời.
57+ Chúc tụng Chúa đi, mọi công trình của Chúa,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
58+ Chúc tụng Chúa đi, các thiên sứ của Người,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
59+ Chúc tụng Chúa đi, chín tầng trời thăm thẳm,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
60+ Chúc tụng Chúa đi, nguồn nước tận cao xanh,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
61+ Chúc tụng Chúa đi, mọi cơ binh thượng giới,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
62+ Chúc tụng Chúa đi, mặt trời với mặt trăng,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
63+ Chúc tụng Chúa đi, hỡi tinh tú trên trời,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
64+ Chúc tụng Chúa đi, nào mưa sương tất cả,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
65+ Chúc tụng Chúa đi, mọi luồng gió cơn dông,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
66+ Chúc tụng Chúa đi, sức nóng với lửa hồng,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
67+ Chúc tụng Chúa đi, trời nồng và khí lạnh,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
68+ Chúc tụng Chúa đi, nào sương đọng mưa tuôn,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
69+ Chúc tụng Chúa đi, kìa thời đông tiết giá,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
70+ Chúc tụng Chúa đi, này băng phủ tuyết rơi,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
71+ Chúc tụng Chúa đi, hỡi đêm ngày đắp đổi,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
72+ Chúc tụng Chúa đi, ánh sáng và bóng tối,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
73+ Chúc tụng Chúa đi, chớp giật với mây trôi,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
74+ Chúc tụng Chúa đi, tất cả mười phương đất,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
75+ Chúc tụng Chúa đi, này đồi xanh núi biếc,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
76+ Chúc tụng Chúa đi, kìa hoa lá cỏ cây,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
77+ Chúc tụng Chúa đi, hỡi suối nước tràn đầy,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
78+ Chúc tụng Chúa đi, nào sông sâu biển cả,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
79+ Chúc tụng Chúa đi, kình ngư cùng thủy tộc,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
80+ Chúc tụng Chúa đi, hết mọi loài chim chóc,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
81+ Chúc tụng Chúa đi, gia súc lẫn thú rừng,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
82+ Chúc tụng Chúa đi, hỡi phàm nhân dương thế,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
83+ Chúc tụng Chúa đi, dòng dõi Ít-ra-en,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
84+ Chúc tụng Chúa đi, tư tế phụng thờ Chúa,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
85+ Chúc tụng Chúa đi, tôi tớ phục vụ Người,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
86+ Chúc tụng Chúa đi, hồn thiêng hàng công chính,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
87+ Chúc tụng Chúa đi, người thánh kẻ khiêm nhường,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
88+ Chúc tụng Chúa đi, này Kha-na-ni-a,
A-da-ri-a và Mi-sa-ên hỡi,
muôn ngàn đời, hãy ca tụng suy tôn.
Vì Người đã kéo ta ra khỏi âm phủ, đã cứu ta khỏi tay tử thần,
và đã giải thoát ta khỏi lò lửa nóng bừng,
khỏi lửa hồng đốt cháy.
89+ Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.
90+ Hỡi tất cả những ai kính sợ Chúa,
hãy chúc tụng Chúa là Thần các thần,
hãy dâng lời tạ ơn và ca tụng,
vì muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương." 
Vua nhìn nhận phép lạ
24 Vua Na-bu-cô-đô-nô-xo ngạc nhiên đứng bật dậy và cất tiếng nói với các quan cố vấn: "Chẳng phải chúng ta đã quăng ba người bị trói vào lửa sao?" Họ đáp rằng: "Tâu đức vua, đúng thế!" 25 Vua cất tiếng nói: "Nhưng ta thấy có bốn người đang tự do đi lại trong lò lửa mà không hề hấn gì, và dáng vẻ người thứ tư giống như con của thần minh." 26 Bấy giờ vua Na-bu-cô-đô-nô-xo tới gần cửa lò đang cháy phừng phực, vua lên tiếng nói: "Hỡi Sát-rác, Mê-sác và A-vết Nơ-gô là tôi tớ của Thiên Chúa Tối Cao, hãy bước ra và tới đây." Sát-rác, Mê-sác và A-vết Nơ-gô liền bước ra khỏi lò lửa. 27 Các thống đốc, thủ lãnh, tổng trấn và các cận thần của nhà vua xúm lại xem những người này, thấy lửa không làm gì được thân thể họ, sợi tóc trên đầu họ cũng không bị cháy sém, áo xống không hư hại, thậm chí mùi lửa cũng không bám vào họ. 28 Vua Na-bu-cô-đô-nô-xo cất tiếng nói: "Chúc tụng Thiên Chúa của Sát-rác, Mê-sác và A-vết Nơ-gô, Người đã sai thiên sứ đến giải thoát các tôi tớ của Người là những kẻ đã tin tưởng vào Người. Họ đã cưỡng lại lời vua, hy sinh tính mạng để khỏi phụng sự và thờ lạy một thần nào khác ngoài Thiên Chúa của họ. 29 Vậy ta truyền rằng bất cứ người nào thuộc bất cứ dân tộc, giống nòi, ngôn ngữ nào dám nói điều gì sai quấy, phạm đến Thiên Chúa của Sát-rác, Mê-sác và A-vết Nơ-gô, sẽ bị xử lăng trì, và nhà chúng sẽ trở thành đống bùn, bởi vì không có thần nào khác có thể cứu được như thế." 30 Rồi vua thăng chức cho Sát-rác, Mê-sác và A-vết Nơ-gô trong tỉnh Ba-by-lon. 
4. Ðiềm Báo Mộng Và Cơn Ðiên Của Vua Na-Bu-Cô-Ðô-Nô-Xo 
31 Vua Na-bu-cô-đô-nô-xo gửi cho những người thuộc mọi dân tộc, mọi giống nòi, mọi ngôn ngữ, đang sống trên khắp mặt đất: Chúc các ngươi vạn sự bình an! 32 Những điềm thiêng dấu lạ mà Thiên Chúa Tối Cao đã làm cho ta, thì nay ta thấy nên công bố:
33 Những điềm thiêng dấu lạ của Người thật lớn lao!
Những dấu lạ của Người thật kỳ diệu!
Vương quốc của Người là vương quốc vĩnh cửu !
     Quyền thống trị của Người bền vững muôn đờ i! 
CHIA SẺ

Biến cố này bao gồm ba loại người, tất cả những hạng người này vẫn còn trong thế giới của chúng ta.

Những thích nghi (c.1-7). Na-bu-cô-đô-nô-so không đủ tầm để trở nên “đầu vàng” (2:38); ông đã muốn được đại diện bởi toàn thể hình ảnh của vàng! Dân chúng đã hạnh phúc để an ủi cho những ước ao của nhà vua bao lâu ông tha mạng cho họ và cung cấp cho họ những gì họ cần.

Những người chỉ điểm (c.8-12). Họ là một số người Ba-by-lon mà Đa-ni-en và những người bạn của ông đã cứu mạng sống họ. Những người không tin chẳng nhìn nhận những gì mà những tín hữu đã làm cho họ. Những người này chỉ muốn đạt được sự ưu ái của nhà vua và lên chức như nhà vua đã ban cho những người Do thái này (2:49).

Những người biến đổi (c.13-30; Rm 12:1-2). Ba người này đã không biết chắc chắn rằng Thiên Chúa có thể giải thoát họ; nhưng thậm chí nếu Ngài không làm thế, họ vẫn vâng theo Ngài và không thờ nhà vua và các ngẫu tượng của ông. Liệu họ có tin tưởng vào Isaia 41:10 và 43:2? Lửa đã đem lại cho họ hai phúc lành: Đức Chúa đã đến và đã đi với họ, và họ đã được tự do khỏi vòng nô lệ. Tình bạn và tự do thường tìm thấy trong giữa lò luyện nếu bạn dấn thân cho Thiên Chúa.

Bạn nhận thấy mình là ai trong số những hạng người trên trong tương quan với Thiên Chúa và tha nhân ?